Cách đây không lâu, tôi là một nhạc sĩ nổi tiếng trình diễn
âm nhạc
khắp thế giới nhưng tôi chưa thỏa mãn với chính mình, hình
như tôi
còn muốn một cái gì nữa mà lúc đó tôi chưa ý thức rõ rệt.
Tôi lái xe
hơi vòng quanh thế giới, khởi sự từ Âu Châu, qua Trung Đông
với ý
định sẽ đi khắp Phi Châu, Á Châu trước khi về Mỹ Châu.
Cuộc
hành trình đưa tôi đến bờ sông Hằng xứ Ấn Độ. Hôm đó tôi dừng
chân
trước đạo viện
Sivananda nơi đạo sư Krishnanandajj đang giảng
kinh Vệ Đà. Dĩ nhiên tôi chưa bao giờ nghe nói đến kinh Vệ
Đà và
cũng chẳng biết vị đạo sư đó là ai. Tôi chỉ muốn chụp vài
tấm ảnh
kỷ niệm để làm bằng chứng cho cuộc du lịch của tôi mà thôi.
Hôm
đó đại sư đã giảng cho học trò về Đại Ngã (Brahman), về
cái lý
tưởng tuyệt đối, không thể phân chia của vũ trụ. Vì lý do gì đó, đấu
óc của tôi bỗng
được đánh thức, tôi ý thức rằng
từ trước đến nay
cuộc đời của tôi chỉ là một giấc ngủ dài không tỉnh. Tôi
nghe giảng
một cách say sưa, quên cả thời gian, không gian và lý do
cuộc thăm
viếng đạo viện. Điều tôi hằng mong muốn nhưng chưa ý thức
được
bỗng hiện lên rõ rệt trong đầu óc của tôi. Tôi quyết định
dừng chân
tại đây để học đạo. Năm đó tôi vừa tròn 35 tuổi.
Tôi xuất thân trong một gia đình trung lưu tại thành phố New York .
Cha mẹ tôi tin rằng tôi có năng khiếu âm nhạc nên họ không
quản
tốn kém mướn giáo sư kèm riêng cho tôi. Giáo sư của tôi, một
nhạc
sĩ nghiêm khắc đã quyết địng rằng tôi phải trở nên một người
độc
tấu nhạc cổ đìển, và chỉ nhạc cổ điển mà thôi. Điều này có
nghĩa là
tôi không được chơi
các bài nhạc vui như Valse hay hòa tấu với
những học sinh khác. Qua âm nhạc, tôi nhận thức được một sức
sống mạnh mẽ tiềm tàng trong mình và khám phá rằng tôi có
nhiều
nhiệt thành với cuộc sống, lúc nào tôi cũng muốn vươn lên
nắm bắt
lấy một cái gì mặc dù lúc đó tôi không rõ mình thực sự muốn
gỉ.
Không như những thiếu nữ cùng lứa tuổi, tôi tin rằng hạnh
phúc chỉ
có thể tìm thấy trong sự thành công nghề nghiệp, danh vọng
và
“sống cho ra sống” chớ không phải ràng buộc trong những giới
hạn
hôn nhân. Trong thời gian học tại đại học tuy quen biết
nhiều ngưòi
nhưng không bao giờ tôi muốn bị lệ thuộc vào bất cứ ai.
Đời sống đối với tôi là một khu rừng đấy hoa thơm cỏ lạ với
những
buồi trình diễn trên
đài phát thanh, đài truyền hình, trên sân khấu
những hộp đêm sang
trọng tại New York , Chicago, Paris, London
v.v…Tôi đã trình diễn trên du thuyền của những vương tôn
công tử
hào hoa phong nhã. Giao thiệp với những người đàn ông từng
trải,
chín chắn. Nhiều người ngỏ lời cầu hôn và hứa hẹn một đời sống
thoải mái cho tương lai nhưng tôi chỉ muốn tự do làm tất cả
những
gì mình muốn và tôi vẫn còn muốn nhiều thứ lắm.
Nghề nghiệp đưa tôi vào nhiều chuyến du lịch đầy hứng thú từ
Âu
qua Á, từ những đô
thị đông
đúc ở Á Châu đến những làng mạc
hoang vu tại Phi Châu. Tuy nhiên tôi không muốn là nhạc sĩ
thuần
túy mà phải nhiều hơn thế nữa.
Tôi học lái phi cơ và trở thành một phi công có hạng. Tôi
bay
“solo” nhiều chuyến từ đô thị này qua đô thị khác. Tôi đã
vẫy vùng
trên không trung như một cánh chim giang hồ và đạt nhiều kỷ
lục
đáng kể. Khi đó số phụ nữ có bằng phi cơ còn hiếm nên tôi đã
trở
thành đề tài cho nhiều câu chuyện thời sự.
Tôi ham thích chơi cờ “Chess”, ngoài việc giải trí thanh nhã
nó còn
là môi trường để thử thách cá tính con người. Tôi đã tranh
giải trong
các hội quán quốc tế và hạ nhiều cao thủ xuất sắc. Trong các
danh
thủ môn cờ này, rất ít người thuộc phái nữ nên tên tuổi của
tôi còn
lẫy lừng hơn nữa nhưng đối với tôi nó vẫn chưa đủ, tôi chẳng
bao
giờ cảm thấy thỏa mãn cả, tôi còn muốn nhiều hơn nữa kìa…
Tôi ký hợp đồng trình diễn tại Phi Châu và lang thang nhiều
năm
trên lục địa nắng
cháy này. Tôi sống trên một du thuyền lộng lẫy
chạy dọc theo sông Nile
suốt sáu tháng liền, nhưng rồi cuộc sống
vương gỉa làm tôi thấy nhàm chán. Tôi tìm đến một làng hẻo
lánh,
sống chung với những nông dân trồng trọt rau trái. Tại đây
tôi học
được bài học về sự hy sinh, nhẫn nại, lòng gắn bó chặt chẽ
vào đất
đai để biến mảnh đất sa mạc khô cằn thành những đồn điền trù
phú
nhưng không hiểu sao tôi không thấy mình gắn bó vào đâu cả.
Tôi trở lại Âu Châu trình diễn âm nhạc một thời gian, lòng
phiên
lưu thúc đẩy, tôi mua một chiếc xe jeep để du lịch vòng
quanh thế
giới. Hầu như bất cứ nơi nào ghé qua, tôi cũng bị bao vây
bởi rừng
phóng viên, ký giả tò mò muốn tìm hiểu người phụ nữ đầu tiên
dám
du lịch thế giới bằng xe hơi một mình. Cuộc du hành đưa tôi
qua Phi
Châu, Trung Đông và rồi Á Châu. Tôi đi dọc theo rặng Hy Mã
Lạp
Sơn hiểm trở để vào đồng bằng xứ Ấn, cho đến một hôm dừng
chân
bên bờ sông Hằng và nghe nói đến danh từ Đại Ngã ( Brahman).
Trí
óc của tôi bị thúc động mạnh mẽ, hình như tôi đã tìm được
điều tôi
muốn, tôi quyết định
dừng chân nơi đây học đạo với Swami
Krishnanandaji.
Tôi học hỏi ý nghĩa kinh Vệ
Đà và chú trọng nhiều đến bộ
Upanishads. Với tấm lòng cương quyết có được kinh nghiệm tâm
linh, tôi đã nhập
thất thiền định nhiều năm trên rặng Hy
Mã Lạp
Sơn. Một hôm thấy trong lòng ngây ngất rạo rực bởi một cảm
giác
an tĩnh lạ thường, tôi vội báo tin cho thầy tôi biết rằng
“Nếu tiếp tục
cố gắng khoảng sáu tháng nữa tôi có thể giác ngộ”. Thầy tôi
không
nói gì chỉ lắc đầu rồi yêu cầu tôi trở lại động đá suy gẫm
thật kỹ về
một đề tài của kinh Vệ Đà: “Khiêm tốn là bước đầu của tất cả
sự tiến
bộ”. Sau khi suy gẫm kỹ lưỡng về đề tài trên, tôi ý thức
rằng người
ta không thể tự hào với một công phu nhỏ bé như thế được,
tôi bèn
cương quyết nhập thất trọn đời. Tôi báo tin cho thầy tôi
biết rằng “
Tôi sẽ từ bỏ thế gian này để thực hành thiền định cho đến
khi chết”.
Một lần nữa thầy tôi lắc đầu và nói rằng: ‘Tại sao con lại
nghĩ rằng
con có thể từ bỏ thế gian này hoặc thế gian này sẽ từ bỏ
con? Hãy
suy gẫm thêm nữa về sự liên hệ giữa cá nhân và thế giới”.
Thế là tôi
lại chui vào động đá để suy gẫm thêm.
Mùa mưa đến với rắn rết, côn trùng bò đầy vào trong hang
nhưng
tôi vẫn không sờn lòng, tôi ao ước có được kinh nghiệm tâm linh
trước khi giấy thông hành của tôi hết hạn. Tuy nhiên thời
gian là một
thử thách lớn, sau mấy năm nhập thất mà vẫn chưa kinh nghiệm
được điều tôi muốn,
lòng phiên lưu mạo hiểm thúc dục tôi lên
đường. Tôi muốn biết ngoài giáo lý Vệ Đà còn có những giáo
lý nào
khác nữa hay không? Biết đâu tôi chẳng học hỏi thêm được
đìều gì
hay ho hơn nữa? Biết đâu tôi chẳng tìm được một giáo lý nào
thích
hợp với tôi hơn, thế là tôi từ gĩa động đá đi Katmandu .
Tôi dừng chân trước một trại tỵ nạn dành cho người Tây Tạng.
Sự
kiện những người dân hiền lành, chất phát phải bỏ mảnh đất quê
hương tìm tự do làm tôi xúc động. Hơn lúc nào hết tôi ý thức
rõ rệt
về sự liên hệ giữa cá nhân tôi và thế giới bên ngoài, tôi
lập tức tình
nguyện làm quản lý trại tỵ nạn này. Tôi thành lập trường
học,
thiếtlập trạm y tế, họp báo kêu gọi thế giới ý thức về tình
trạng cai
trị hà khắc của Trung Cộng. Tôi nghĩ rằng nhờ công tác xã
hội này
tôi sẽ tìm được đìều tôi muốn cái gì, đời sống đối với tôi
bỗng trở
nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Hằng ngày tôi thường lái xe chuyên chở thực phẩm cho trại tỵ
nạn
qua những đường đèo nhỏ hẹp trên rặng Tuyết Sơn. Tôi nhìn
thấy
hằng trăm xác xe hơi dưới đáy thung lũng, chỉ một lơ đãng cả
người
và xe đều rơi xuống vực sâu. Hơn lúc nào hết sự chết bắt đầu
ám ảnh
tâm trí tôi. Tôi nghĩ nhiều về sự chết, về đời sống và bắt
đầu sợ hãi.
Tôi vừa lái xe vừa cầu nguyện, đôi khi tôi còn đọc những bài
thần
chú Tây Tạng nữa. Không ai muốn chêt trước khi được một
quyền
năng nào đó “bảo đảm“ cho.
Vì công việc xã hội tôi quen biết linh mục Moran và Hòa
Thượng
Serkong Rimpochen. Tôi than thở với hai vị này rằng “ Khi
xưa tôi
vẫn nghĩ đời sống là một cái gì đẹp đẽ nhưng hiện nay tôi
lại thấy
đời sống sao đầy những khó khăn, không sao thoải mái được”.
Cả
hai khuyên tôi phải có một thái độ với cuộc sống. Linh Mục
Moran
khuyên tôi cầu nguyện Thượng Đế nhiều lần trong ngày. Hòa
Thượng Serkong khuyến khích áp dụng một kỷ luật chặt
chẽ để
kiểm soát thân và tâm. Tuy nhiên tôi không giữ được điều gì
vì đấu
óc của tôi lúc đó cứ
bị dầy vò, xung đột bởi một cảm giác
trống
rỗng, thiếu thốn, không thể diễn tả.
Ít lâu sau tôi trở lại
đạo viện Sivananda khóc lóc với
đạo sư
Krishnanandaji:” Con không thể sống với cái thế giới đầy
phiền não
này được nữa, con quyết định nhập thất thiền định cho đến
khi đạt
được kinh nghiệm tâm linh. Con không muốn du lịch hay làm
công
việc xã hội nữa mà chỉ ao ước kinh nghiệm của Thượng Đế mà
thôi.
Từ nay con nhất quyết đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài.”
Một lần nữa đạo sư Krishnanandaji lại lắc đầu nói rằng: “Tại
sao
con lại nghĩ mình có thể từ bỏ thế giới này? Thượng Đế và
thế giới
này đâu phải hai phần cách biệt, hãy tập trung tư tưởng để
suy gẫm
thật kỹ về đề tài
này”. Từ đó bên dòng nước sông Hằng,
tôi đắm
mình vào việc thiền
định, suy gẫm về cuộc đời đã qua của mình.
Cho đến lúc đó tôi mới hiểu được rằng cuộc sống “ thiếu ý
thức” của
tôi khi trước chỉ là những gì chập chờn như giấc mộng. Tuy
hiểu
được vậy nhưng tôi vẫn chưa biết cách sống làm sao cho thoải
mái
để tìm sự an tĩnh trong nội tâm.
Sau một thời gian thiền định, quán tưởng, lòng phiên lưu mạo
hiểm
lại thúc dục tôi lên đường. Tôi tự nhủ biết đâu tôi chẳng
học hỏi điều
gì hay ho hơn nữa? Tôi qua Nga Sô, Đông Âu và Tây Âu trình
diễn
âm nhạc và dừng chân ở một làng nhỏ nước Ý. Tại đây tôi gặp
Linh
Mục Padre Pio, một người mà trên thân thể có những bí tích
(những
dấu vết đóng đinh giống như Chúa Giê Su, mỗi năm cứ đến thời
gian
trước lễ Phục Sinh thì những vết thương đó lại chảy máu một
cách
kỳ lạ).
Tôi được Linh Mục Pio chỉ dẫn rất nhiều về giáo lý bí truyền
chỉ
phổ biến trong những dòng tu kín. Sống gần Linh Mục tôi kinh
nghiệm được một sự bình an lạ lùng, mỗi khi Ngài giơ tay ban
phép
lành thì tôi lại thấy trong người dào dạt một cảm giác bình
an vô
hạn. Hàng ngày tôi tham dự khóa lễ tại nhà thờ San Giovani,
lòng
yêu thương sùng kính của tôi đối với đấng Christ gia tăng
mãnh liệt.
Tôi muốn gia nhập dòng tu kín, trở nên một nữ tu dành trọn
cuộc đời
cầu nguyện Thiên Chúa nhưng tôi vẫn ngần ngại vì không quên
cái ý
thức về Đại Ngã
(Brahman) và những kinh nghiệm thu thập bên
dòng sông Hằng. Tôi cảm thấy trong người bị xâu xé bởi một
cảm
giác mâu thuẫn. Một mặt muốn quay về với triết lý phương
Đông
nhưng mặt khác tôi lại thấy thoải mái với lối giải thích của
thần học
Tây Phương. Ít lâu sau tôi nhận lời mời của giáo sư John
Bennett qua Luân Đôn
nghiên cứu công trình còn lại của Gurdjieff, một triết gia
kiêm nhạc
sĩ nổi tiếng . Gurdjieff đã dung hòa được tư tưởng Đông và
Tây qua
những lời khuyên hết sức thực tế, ngoài ra ông cũng là một
nhạc sĩ
nên tôi nghĩ rằng một nhạc sĩ tôi có thể thông cảm với nhạc
sĩ hơn.
Tôi chuyên tâm nghiên cứu công trình của Gurdjieff, một hôm
đang
đi bộ trên đường Oxford ,
tôi bỗng ý thức được một cảm giác tự do
kỳ lạ, tôi không còn thấy mình là mình nữa mà cứ lâng lâng
như
được nâng lên một bình diện nào đó cao hơn. Tôi ngây ngất
một lúc
rất lâu và ý thức được điều Gurdjieff vẫn nói :” Sự ý thức
toàn vẹn
về sự sống.”
Tôi kể cho giáo sư Bennett nghe về kinh nghiệm này và ngỏ ý
muốn tìm một nơi yên tĩnh để suy gẫm thêm. Giáo sư Bennett
không
đồng ý, ông nói:” Tách ra khỏi đời sống không phải điều
Gurdjieff
chủ trương, sống và ý thức sự sống, ý thức sự chuyển hóa của
mình
với đời sống mới là điều quan trọng.” Tôi không đồng ý với
giáo sư
Bennett, đầu óc của tôi vẫn khăng khăng nghĩ rằng tôi có thể
tìm đến
nơi chốn nào để sống trọn vẹn với cái cảm giác bình an đó
mãi. Tôi
tìm đến một tu viện hẻo lánh ở Phi Châu, và tôi tuyên bố với
tu sĩ
trưởng: “Tôi đến đây để tìm sự yên tĩnh, để suy gẫm, để
nghiên cứu,
để kinh nghiệm…” Trước khi tôi có dịp nói hết lời thì tu sĩ
này đã
lạnh lùng ngắt lời : “Muốn sống tại đây ai cũng phải làm
việc. Tôi
giao cho bà một số văn kiện, giấy tờ, bà có bổn phận sao lục
ra làm
nhiều bản, gửi đến địa chỉ trong danh sách này. Yêu cầu bà
làm việc
ngay vì đây đều là những thư khẩn cả”.
Thế là tôi thấy mình “
è “ cổ ra sao lục những văn kiện,
giấy tờ.
Lúc đó không có máy Photocopy, không có máy điện toán như
hiện
nay nên mọi việc đều phải làm bằng tay. Khi tôi trình lên tu
sĩ xấp
văn thư dầy cộm, ông này liếc qua mấy hàng và phê bình ngay:
“ Bà
làm việc cẩu thả, chữ viết nghiêng ngả, những con tem dán
không
thẳng hàng. Yêu cầu bà hãy làm lại, bà hãy ngâm những con
tem
vào nước, bóc ra rồi dán lại cho thật ngay hàng thẳng lối.
Tuyệt đối
không được phí phạm một thứ gì vì phong bì, giấy tờ và những
con
tem đều tốn kém, phí phạm nó sẽ gây thiệt hại cho ngân quỹ
nơi đây.
Yêu cầu bà làm việc cho thật nghiêm chỉnh vì đó là đường lối
tại
đây, nếu không được như thế xin bà rời nơi này ngay lập
tức.”
Tôi không thể tin rằng một người mang danh tu sĩ lại ăn nói
lạnh
lùng, bất lịch sự như vậy. Từ trước đến nay tôi là người nổi
tiếng, đi
đâu cũng được kính trọng, nể vì, không ai ăn nói hỗn xược
như vậy
với tôi nhưng rồi tôi cũng dẹp bỏ tự ái, cắn răng hoàn tất
công việc
giao phó. Đến khi đó vị tu sĩ mới dịu giọng hỏi tôi: “ Thưa
bà bà
muốn học hỏi điều chi? “Tôi nói ngay mà không cần suy nghĩ :
“
Tôi muốn được kinh nghiệm với đấng Vô Cùng”. Vừa nghe vậy,
tu
sĩ đã lạnh lùng: “ Thế thì bà đi lầm chỗ rồi, tại đây chúng
tôi chỉ chủ
trương ý thức tất cả mọi hành động và hoàn hảo trong mọi hành
động mà thôi.” Tôi sững sờ một lúc nhưng rồi quyết định sống
tại đó
một thời gian xem sao vì biết đâu tôi chẳng học hỏi thêm
được điều
gì chăng?
Ngày tháng trôi qua, tôi bị ép buộc phải làm nhiều việc một
cách vô
cùng cực nhọc. Tôi dậy sớm quét nhà, lau dọn, chùi cầu tiêu
và tất
cả mọi việc lao động trong tu viện thế mà còn bị chỉ trích
và phê
bình đủ thứ. Hình như người ta cố tình áp dụng “Kỷ Luật Sắt” riêng
cho tôi. Dù tôi làm việc tốt đến đâu người ta cũng có thể
tìm cách
chê trách được, dĩ
nhiên lúc đầu tự ái của tôi bị va chạm
mạnh
nhưng rồi sau cũng quen đi. Điều tôi không ngờ là cái bản
ngã tự
cao tự đại, đầy kiêu căng phách lối của tôi nhờ thế mà cũng
giảm
dần theo thời gian. Cái cảm giác thiếu thốn khó chịu cũng
theo đó
mà biến mất, tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái với chính mình
nhiều
hơn. Khi biết thoải mái với mình thì người ta bắt đầu nghĩ
đến người
khác và tôi đã suy nghĩ nhiều về mối liên hệ giữa cá nhân và
xã hội.
Tôi thấy từ trước đến nay tôi sống một cách ích kỷ quá. Do
đó, khi
một phái đoàn truyền giáo đi ngang, tôi vội tháp tùng theo
họ đến
trạm y tế, sống trong những làng mạc của người da đen.
Công việc hoạt động này giúp tôi có cơ hội tiếp xúc với
nhiều nhân
vật quan trọng của Phi Châu. Tôi thấy người ta đã cố tình
loại bỏ tên
tuổi những người da đen trong các công trình xây dựng quan
trọng
tại đây. Cuốn niên giám nhân vật Phi Châu” Who’s who in Africa ”
không hề đề cập đến bất cứ một người da màu nào.
Sự bất công, kỳ thị chủng tộc của người da trắng đã thúc đẩy tôi
phải làm một cái gì. Tôi bỏ thời giờ nghiên cứu để xuất bản một
cuốn niên giám nhân vật khác. Lúc đầu tôi nghĩ nó chỉ mất
khoảng
sáu tháng là nhiều, sau đó tôi sẽ tìm về một làng mạc hẻo
lánh để
tiếp tục công tác xã hội và thiền định, nhưng sáu tháng lại
biến thành
bốn năm. Công trình nghiên cứu cuốn niên giám nhân vật đòi
hỏi
một sự kiên nhẫn, bền chí và cương quyết trong môi trường mà
sự
kỳ thị chủng tộc và nỗi bất công là việc đương nhiên. Cho
đến khi
đó tôi mới ý thức được sự lợi ích của thời gian sống trong
kỷ luật
tuyệt đối tại tu viện kia. Thời gian làm việc tại Phi Châu
giúp tôi ý
thức gía trị của cuộc sống và hiểu biết về chính tôi nhiều
hơn.
Tôi biết cách sống một cách thoải mái, bình dị và quyết định
Phi
Châu là quê hương thứ hai của tôi.
Để nghiên cứu làm cuốn niên giám nhân vật, tôi đã du lịch qua
nhiều làng mạc, quốc gia tại Phi Châu. Một người Phù Thủy đã
nói “
Bà sẽ trở nên một giáo sư và có rất nhiều học trò”. Tôi
không tin
những điều tiên đoàn vu vơ nên gạt đi viện lẽ tôi không hề
có bằng
cấp giáo dục và cũng không có ý định mở trường dậy dỗ ai hết
nhưng ông này nhấn mạnh “ Quá nhiều người không ý thức được
đìều họ làm và cần giúp đỡ. Thế giới này thiếu gì người có
bằng cấp
nhưng nếu họ không ý thức được chính họ thì làm sao họ có
thể giúp
đỡ hay dậy dỗ ai? Bà có nhiều kinh nghiệm cá nhân và nên
chia sẻ
điều này với người khác.”
Tôi không để ý đến lời khuyên của ông này nhưng sau khi cuốn
sách được xuất bản, tôi được nhiều nơi mời diễn thuyết và
một bất
ngờ xảy ra. Đa số thính giả chỉ muốn nghe tôi nói về những
kinh
nghiệm cá nhân của tôi hơn là tiểu sử nhân vật mà tôi ghi
chép trong
cuốn niên giám nhân vật. Chỉ ít lâu sau người ta chính thức
mời tôi
diễn thuyết về những kinh nghiệm tâm linh này thay vì những
đề tài
khác. Số thính giả mỗi ngày một đông, nhiều người cho biết
họ tìm
được sự thoải mái sau khi áp dụng những phương pháp mà tôi
đề
xướng.
Ít lâu sau tôi gặp lại người phù thủy nọ. Lần này ông ta cho
biết “Bà
sẽ rời Phi Châu đi diễn thuyết khắp nơi trên thế giới, bà sẽ
giúp đỡ
nhiều người hơn nữa…” Tuy bán tín bán nghi nhưng tôi đã trả
lời :
“Tôi chán du lịch lắm rồi, tôi chỉ muốn sống yên ổn tại
đây thôi.
Không ai có thể bắt tôi đi đâu nữa.” Người Phù Thủy thản
nhiên nói
: “Điều bà muốn và điều Ngài muốn có thể không giống nhau
nhưng
rồi bà sẽ học được điều cần phải học.”
Để chắc ăn tôi cho đi
tất cả những quần áo, hành trang và cương
quyết không đi đâu nữa. Vài tháng sau tôi được mời nói
chuyện tại
câu lạc bộ phụ nữ ở New York . Tôi nghĩ thầm
dự một buổi diễn
thuyết ngắn ngủi về phong tục và văn hoá Phi Châu rồi trở về
đây
ngay thì ăn nhằm gì.
Thế là tôi thu xếp hành trang lên đường qua
Hoa Kỳ.
Khi đến New York tôi được biết
đạo sư Baba Muktananda cũng
đang diễn thuyết ở đó. Tôi đã nghe nhiều người nói về ông
này khi
còn ở Ấn Độ nên nhủ thầm đây quả là dịp may hãn hữu vì BIẾT
ĐÂU TÔI CHẲNG HỌC THÊM ĐƯỢC MỘT ĐIỀU GÌ HAY
CHĂNG?
Tôi ngồi trên hàng ghế đầu nghe Baba Muktananda diễn thuyết
về
những kinh nghiệm tâm linh. Tôi băn khoăn tự hỏi “Tại sao
trải qua
bao công phu tu tập, thiền định và quán tưởng mà tôi vẫn
chưa có
được kinh nghiệm tâm linh nào?” Đang diễn thuyết đạo sư Baba
bỗng ngưng nói nhìn thẳng vào chỗ tôi và thong thả nói:
• Này chị kia, chị
chưa kinh nghiệm được gì vì chị còn ích
kỷ,
tham lam và có nhiều ràng buộc quá
• Tuy giật mình nhưng
là một phụ nữ quen hoạt động, tôi đã trấn
tỉnh ngay:
• Ông nói tôi ư? Tôi
có nhiều ràng buộc sao?
Baba thản nhiên:
• Đúng thế, nếu không
tin chị hãy nhìn vào ví của chị mà xem.
• Tôi lục chiếc ví
nhỏ, ngoài các đồ dùng cá nhân lặt vặt trong ví
chỉ có mỗi chiếc vé phi cơ về Phi Châu ngày hôm sau thôi. Dĩ
nhiên tôi phải trở về Phi Châu…Ngay lúc đó một ý nghĩ nổi
lên
trong đầu óc. Tôi run giọng:
• Ông muốn nói người
ta có thể bị ràng buộc vào một quốc gia,
một lục địa, một lý tưởng hay một con chó. Nếu người ta cứ
mải
miết suy nghĩ về những điều mình muốn nhiều hơn suy gẫm về
những điều cao thượng khác.
• Quả thế, thời gian
gần đây tôi thường nghĩ đến Phi Châu, nghĩ
đến những công trình mà tôi đã xây dựng tại đây, nghĩ đến
những
làng mạc hẻo lánh, những người dân quê chất phát hồn nhiên,
những nơi chốn mà tôi
đã cải thiện được và cảm thấy hết
sức
hãnh diện nhưng tôi không bao giờ nghĩ mình lại bị ràng buộc
vào đó. Không hiều sao Baba đọc được ý tưởng thầm kín của
tôi,
ông nói luôn:
• Chị không nghĩ chị
bị ràng buộc hay sao? Nếu vậy chị nghĩ sao
khi phải từ bỏ tất cả những nơi đó để sống tại Hoa Kỳ?
• Sống tại Hoa
Kỳ ư? Không bao giờ! Không đời nào tôi muốn
sống tại nơi mà những giá trị vật chật như tiền bạc, danh
vọng
được đề cao như giá trị tối thượng. Không đời nào tôi muốn
chui
rúc vào những phiền toái của đời sống mà tôi đang cố gắng
thoát
ra. Tôi đã đoạn tuyệt với nó từ lâu rồi kia mà. Một lần nữa
Baba
nói lớn:
• Này chị kia, chính
những điều mà chị muốn tránh né đã ràng
buộc chị vào những điều khác. Chị không thể trốn chạy mãi
như
thế được, chị có muốn
thực sự kinh nghiệm những điều cao
thượng tốt lành không? Tôi im lặng, câu nói của Baba như có
một sức mạnh phá tung tất cả quan niệm từ trước đến nay của
tôi.
Tôi ngồi im, sững sờ nhưng trong đầu của tôi cả là bãi chiến
trường. Sau cùng tôi mở ví, rút tấm vé phi cơ đưa cho Baba.
Ông
cầm tấm vé phi cơ trên tay và thong thả nói riêng với tôi:
• Chị có chắc chị sẽ
làm như vậy không?
Tôi biết ông ta ám chỉ điều gì. Tôi nói qua hàng lệ:
• Thưa có, tôi muốn kinh nghiệm của Thượng Đế.
Tôi không
trở lại Phi Châu nữa mà tìm đến một khách sạn nhỏ gần
đó tập
trung công phu vào việc thiền định và suy gẫm về sự tự do
tuyệt đối,
về sự cởi bỏ ràng buộc. Tôi không còn nghĩ đến điều mình
muốn nữa,
không còn nghĩ đến quá khứ, đến những phiền toái,
những điều
mà tôi muốn xa lánh. Tôi chỉ chuyên tâm suy nghĩ về
những điều
cao thượng tốt lành. Từ khi ý thức được điều này, công
phu thiền
định của tôi tăng tiến rõ rệt, tôi cảm thấy như được che
chở trong
một luồng từ điện yên tĩnh an lành nào đó. Nhưng rồi một
vọng niệm
lại nẩy sinh trong đầu óc tôi, tôi ao ước sẻ an trú trong
trạng thái an lạc này mãi mãi. Ý tưởng đó vừa nảy sinh tôi
đã hối
hận nhưng đã muộn, chỉ vài giờ sau, người chủ khách sạn đã
đến đập cửa đòi tiền và tôi khám phá
rằng tôi đã tiêu sạch số tiền dự trữ
mang theo.
Để kiếm sống, tôi đành trở lại việc diễn thuyết về đề tài
tâm linh. Số
thính giả mỗi ngày một đông nhưng tôi vẫn không quên trạng
thái an
lạc kinh nghiệm được trong khi thiền định. Tôi mong có thể
tìm một
nơi chốn vắng vẻ, yên tĩnh để an trú trong trạng thái an
bình đó.
Cơ hội đã đến khi một người bạn cho biết anh có một căn nhà
nghỉ
mát nhỏ nằm sâu trong rừng, nếu muốn, tôi có thể sống tại đó
mà
không phải trả tiền thuê mướn chi hết. Căn nhà này không có
những
tiện nghi như điện, nước hay lò sưởi vì chủ nhân chỉ tạm trú
mỗi khi
săn bắn mà thôi. Tôi vội vã chụp ngay cơ hội hiếm có này.
Đời sống tại đây không dể dàng như tôi nghĩ, hàng ngày tôi
phải
gánh nước từ một dòng suối nằm sâu dưới đáy thung lũng lên
nhà.
Tuy nhiên tôi học cách ý thức từng cử chỉ và hành động của
mình và
tìm sự bình an trong mọi hành động. Tôi thoải mái khi giặt
giũ quần
áo dưới suối, khi nấu ăn, khi lau nhà và việc tu thiền của
tôi càng
ngày càng tiến bộ. Tôi nhủ thầm sẽ không đi đâu nữa vì tôi
đã tìm
được một nơi trú ẩn thoải mái, đã tìm được điều ao ước từ
bao lâu
nay. Nếu những bực đã chứng ngộ đều đạt đạo tại những nơi
hoang
vu cô tịch thì biết đâu điều đó lại chẳng xảy ra cho tôi?
Một ngày mùa đông, thời tiết lạnh giá, chỉ trong thoáng giây
nhiệt
độ trong nhà đã sụt xuống đến mức khủng khiếp. Chiếc lò sưởi
xách
tay nhỏ tự nhiên không chạy nữa mặc dù nó vẫn còn đủ dầu
hôi. Tôi
mặc tất cả quần áo vào mình để chống lạnh và thực tập phưong
pháp
Yoga về Nhiệt Công. Không hiểu vì lý do nào mà mọi ngày tôi
có
thể chịu đựng được thời tiết giá lạnh nhưng lần này lại
khác, một
luồng hơi lạnh ở đâu thấm vào cơ thể khiến chân tay tôi đông
cứng.
Tôi cố gắng tập trung tư tưởng để thiền định, mọi khi tôi có
thể nhập
thiền dễ dàng nhưng hôm nay người tôi cứ run lên vì lạnh.
Tôi cố
gắng làm tất cả những gì tôi biết để chống lạnh nhưng vô
hiệu, hơi
lạnh như muôn ngàn con dao sắc bén đâm sâu vào da thịt. Tôi
bắt
đầu lo sợ, từ đây ra đến làng gần nhất cũng phải mất hơn
mười cây
số, mười cây số đường bộ trong cái lạnh kinh hồn này quả là
một thử
thách vô cùng lớn lao.
Đến gần sáng không thể chịu đựng được nữa tôi đành thu thập
hành
trang lên đường. Tôi run rẩy bước đi trong làn gió bấc rét
căm căm,
toàn thân tôi như bị đông cứng trong cái lạnh kinh hồn.
Tuyệt nhiên
không một tiếng động
nào mà chỉ có tiếng chân lê bưóc trên con
đường mòn nhỏ phủ đầy tuyết trắng.
Ba giờ sau, tôi dừng chân trước quán ăn ở đầu làng, chưa bao
giờ
mùi cà phê nóng lại có thể quyến rũ tôi đến thế. Ánh đèn
điện sáng
choang, tiếng người nói ồn ào, mùi xào nấu thơm phức… Hơn
lúc
nào hết, tôi ý thức ngay một cảm giác hoan hỷ khi được trở
lại với
cái thế giới mà tôi vẫn muốn từ bỏ nó. Tôi ngồi trên chiếc
ghế bành
ấm áp của nhà hàng và ý thức rằng. “ Tôi đã làm tất cả những
gì có
thể làm để từ bỏ thế gian vì tôi nghĩ thế gian này và tôi là
hai thực
thể tách biệt. Cho đến lúc đó tôi mới ý thức rằng tôi chinh
là một
phần của thế gian này và vì là một phần của nó, tôi không
thể tách
riêng ra được. Chính sự ham muốn đã thúc đẩy tôi đi tìm tất
cả, kể
cả những kinh nghiệm tâm linh, nhưng trải qua nhiều biến cố
rời rạc
tôi mới thấy rõ một sự liên hệ, gắn bó, có ý nghĩa vô cùng.
Tôi đã
học được bài học mà tôi phải học.”
Tôi trở lại với công việc diễn thuyết, số khán giả mỗi ngày
một
đông hơn trước. Điều tôi kinh nghiệm được trong buổi sáng mùa
đông hôm đó đã dậy cho tôi một bài học vô cùng quí giá. Thật
ra
những điều này tôi vẩn biết qua sách vở, kinh điển, qua sự
dậy dỗ
của các đạo sư nhưng tôi chưa thực sự kinh nghiệm được nó, ý
thức
được nó.
CÓ LẺ CHÚNG TA KHÔNG HỌC
ĐƯỢC BÀI HỌC MÀ
CHÚNG TA PHẢI HỌC NÊN CHÚNG TA CỨ PHẢI HỌC ĐI,
HỌC LẠI MÃI CHO ĐẾN KHI NÀO THỰC SỰ HỌC ĐIỀU
PHẢI HỌC VÌ ĐỜI SỐNG TỰ NÓ VỐN KHÔNG CÓ TÍNH
CÁCH CÁ NHÂN. KHI CẦN PHẢI TĨNH TÂM TRONG SỰ
CÔ TỊCH THÌ HOÀN CẢNH SẼ ĐẾN VỚI CHÚNG TA, KHI
CẦN HÀNH ĐỘNG THÌ
HOÀN CẢNH SẼ THÚC DỤC
CHÚNG TA HOẠT ĐỘNG. TẤT CẢ MỌI SỰ MONG CẦU,
AO ƯỚC, DÙ LÀ AO ƯỚC MỘT SỰ BÌNH AN CŨNG ĐỀU
LÀ NHỮNG VỌNG NIỆM VÀ NẾU LÀ NHỮNG VỌNG NIỆM
NÓ CẦN PHẢI LOẠI TRỪ.
Nguồn: Lời giới thiệu cuốn sách minh triết trong đời sống hàng ngày, Darshani Deane (Shirley Deane)
No comments:
Post a Comment