Như bạn đọc đã xem qua, Tứ
Niệm Xứ là một pháp hành thiền rất quan trọng mà xưa kia tất cả các vị Thánh
Tăng đã hành theo đó mà đắc quả vô sanh (A La Hán). Dù quan trọng như vậy,
nhưng sau khi Ðức Phật nhập diệt, Tứ Niệm Xứ dần dần bị lãng quên.
Vì thấy tình trạng chia rẻ
giữa Ðại và Tiểu, làm cho một số Kinh sách căn bản trong Tam Tạng Pàli bị lãng
quên, nên tôi so sánh nơi đây phép hành Thiền Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông để quý
vị thấy rằng hai pháp môn này không khác nhau là mấy.
A. Thiền Tông
Theo Bắc tông thì vị Thiền Tổ
thứ nhứt là ngài Ma Ha Ca Diếp (Maha Kapa). Sau đó giòng Thiền được truyền đến
vị Tổ thứ 28 là Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma), đến đây giòng Thiền ở Ấn Ðộ được
truyền sang Trung Hoa. Ở Trung Hoa Bồ Ðề Ðạt Ma được xem là Sơ Tổ, và giòng
Thiền tiếp tục truyền đến Lục Tổ Huệ Năng, sau đó y bát không còn được truyền
xuống nữa. Nhưng bắt đầu từ Lục Tổ trở đi thì Thiền Tông rất hưng thịnh, và đã
truyền sang các nước lân bang như Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam .
Thiền Tông có cả thảy 33 vị
Tổ, nhưng được đề cao nhất là Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, chính vị Tổ này đã tạo cho Thiền
Tông một sắc thái đặc biệt khi sang Trung quốc tuyên bố rằng đây chính là:
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Do từ khẩu hiệu này mà Thiền
Tông (ở Trung Hoa) còn được gọi là Tổ Sư Thiền, tức là Thiền xuất phát từ các
Tổ Sư. Ðến đời Lục Tổ Huệ Năng thì Thiền lại chia làm hai phe. Nam đốn, Bắc tiệm (Tổ Huệ Năng xiển dương đốn
ngộ ở phương Nam ,
Ngài Thần Tú chủ trương tiệm tu ở phương Bắc). Sau một thời gian thì chỉ còn
lại Thiền phương Nam là thịnh hành hơn cả, nên Thiền Tông lại được gọi với một
danh từ khác là Thiền Ðốn Ngộ. Chính phái Thiền này được truyền thừa từ Trung
Hoa sang Việt Nam do Tổ Tỳ Ni Ða Lưu Chi, và chư Tổ sau này đều thuộc giòng
Thiền này.
Chủ trương của Thiền Tông là
gì? Vẫn là bốn câu kệ của Tổ Ðạt Ma: "Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo
lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật". Chính bài kệ này đã làm
cho Thiền Tông nổi bật với tánh cách kỳ dị của nó. Người ngoài mới nhìn vào có
thể lầm lẫn, tưởng Thiền là một pháp môn đặc biệt, tu theo đó mau thành Phật.
Nhưng thật ra bài kệ trên nếu đem áp dụng vào thực tế thì nó không còn đúng hẳn
với ý nghĩa của nó nữa. Xưa kia các Thiền Sư mỗi ngày đều thượng đường nói
pháp, lời lẻ câu văn của các Ngài có thể thô tục, tầm thường, không văn hoa như
nhưng danh từ dùng trong Kinh điển, nhưng tất cả đều ngụ ý giảng giải giáo lý
của Phật, làm sao có thể nói "chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý"
được.
Các Thiền Sư thường đánh đập,
la hét, dùng đủ mọi phương tiện để cho đệ tử nhận ra ông chủ, hay tánh giác của
mình, "chỉ thẳng tâm người" chỉ là một cách nói mà thôi. Nếu thấy
tánh thành Phật liền thì 33 vị Tổ Thiền Tông đều đã là Phật cả rồi, nên nói
đúng hơn là thấy tánh thành Tổ.
Tuy vậy nếu so sánh với các
Tông phái khác thì Thiền Tông vẫn đặc biệt hơn, với tánh cách phóng khoáng tự
tại trong việc dùng phương tiện để chỉ cho người tu nhận lại tánh giác hay
"bản lai diện mục". Khi nhận được tánh giác rồi, người tu phải tiếp
tục tinh tấn thực hành chánh niệm (Samma-Sati), xả trừ vọng tưởng đến ngày hoàn
toàn sống với tánh giác (hằng giác) thì lúc đó gọi là chứng ngộ. Có chứng ngộ
mới thoát khỏi sanh tử luân hồi, còn giác ngộ chỉ mới là chánh kiến (Samma
Ditthi), phần đầu trong Bát Chánh Ðạo (Ariya Magga).
Người mà nhân nghe nửa câu
hoặc một câu ngộ đạo, hay bị một đạp, một gậy giác ngộ, thì được gọi là
"truyền tâm ấn". Những người này thường là những người lanh trí lẹ
mắt, vì thế nên Thiền Tông được xem như chỉ dành cho hàng thượng căn. Nhưng hàng
thượng căn thì bao giờ cũng ít, mà hạ căn thì bao giờ cũng nhiều, nên lần lần
theo thời gian Tâm ấn bị thất truyền. Phần khác, sau này Tông Tịnh Ðộ được xiển
dương rất hưng thịnh, nên những ai muốn tu Thiền không biết nương vào đâu. Nếu
muống nương vào nhà Sư thì tâm ấn thất truyền, lấy ai cho ta thoại đầu, công án
hay đánh đập đúng lúc cho ta giác ngộ. Thật ra các công án, thoại đầu, đánh
đập, la hét chỉ là những phương tiện thiện xảo của các Thiền Sư tùy bịnh cho
thuốc, rút đinh nhổ chốt, quả dưa chín một phen xúc chạm liền rớt mà thôi. Các
Ngài không để lại phương thức tu tập nào cả, nếu để sẽ trái với câu "Bất
lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền". Vì các Ngài cố ý không theo một thứ
lớp tu tập nào cả, nên có một số người tu theo Tiểu Thừa cho Thiền Tông là một
quái thai của Phật giáo. Nếu quái thai mà đưa đến giác ngộ giải thoát thì chắc
cũng nên quái thai!
Ngày nay giòng Tổ Sư Thiền
gần như đã mất, trừ ra có Thầy Thanh Từ đang cố gắng hoằng dương lại. Kinh băng
và sách của Thầy đã được phổ biến rộng rãi ngoài hải ngoại. Tuy nhiên nếu chỉ
nghe Kinh băng hoặc đọc sách để mong chờ ngày giác ngộ thì thiệt là không thể
có. Vì Thiền là một pháp hành, không phải pháp học, tự mình phải chiêm nghiệm
thấy rõ được sự lưu chuyển của tâm thức mới mong thấy được tự tánh.
Kinh sách Thiền Tông ít có
ghi lại những phương thức tu tập, đa số chỉ ghi lại những biến cố giác ngộ của
các Thiền Sư, mang nhiều tính cách ly kỳ, hấp dẫn như các trường hợp giác ngộ
khi bị đánh, hét, hoặc khi thấy hoa nở, nghe tiếng mưa rơi v.v... Khi đọc những
trang sách này, người tu Thiền thường có khuynh hướng mong cầu được giác ngộ
giống như vậy.
Nếu đọc Kinh sách Nguyên Thủy
như trong Trưởng Lão tăng kệ (Théragatha), ta sẽ thấy trong đó cũng có ghi lại
những trường hợp mà chư Thánh Tăng trong thời đức Phật đã giác ngộ. Thí dụ
trường hợp của Ngài A Nan chứng quả A la Hán trong khi đang quay mình đặt lưng
xuống nghỉ, Ngài Châu lợi Bàn Ðà Già ngộ đạo trong khi đang quét nhà, v.v...
Nhưng sự việc này ít được nói đến, vì đó chỉ là kết quả hiển nhiên của một sự
tu tập chánh niệm hoặc Minh Sát Tuệ đến mức thành tựu.
Chân lý là cái gì tuyệt đối,
Pháp thân thì bất khả thuyết, bất khả tư nghì, vì thế Thiền Tông chủ trương chỉ
thẳng (cho người nhận ra) bổn tánh, không dài giòng văn tự. Càng nói lý bao
nhiêu, càng đi xa Thiền bấy nhiêu. Việc đó chỉ dành cho những học giả muốn thỏa
mãn tài phân tách của mình mà thôi.
Chúng ta có cái tật là hay
học thuộc lòng những câu kệ, chú của các Thiền Sư đắc đạo, rồi mỗi khi nói đến
Thiền thì đem ra lập lại, giảng nghĩa bàn luận, có biết đâu là mình đang nhai
đi nhai lại cặn bã của kẻ khác. Người nào tu người đó biết, người nào chứng
người đó hay, những câu thơ câu kệ xưa kia là của riêng các Thiền Sư, không
dính líu gì đến ta cả, không nên si mê dại dột mà nhận của người làm của mình.
Vì nhận lầm như thế nên đa số người học Thiền đều tưởng lầm là mình phá chấp và
sắp sửa thành Tổ cả rồi!
Xưa kia Tổ Ðạt Ma đem Thiền
vào Trung Quốc với một hình thái kỳ dị chỉ nhằm mục đích giải tỏa sự chấp chặt
vào văn tự Kinh điển của một số người thuở đó ưa học Phật mà không chịu tu
Phật. Ngày nay trình độ học Phật rất kém, nên ta không thể chấp vào Kinh điển
được, nhưng ngược lại chúng ta lại đi chấp chặt vào những kinh kệ của chư Tổ,
nhất là Thiền đốn ngộ. Vì lý do này, nên tôi nghĩ rằng những ai muốn truyền bá
Thiền, thì tốt hơn là nên truyền bá Thiền của Ngài Thần Tú hơn là Thiền của
Ngài Huệ Năng. Làm như vậy có thể có lỗi với Lục Tổ, nhưng chắc không phụ ơn
đức Phật. Vì đức Phật chỉ muốn làm sao cho chúng ta thoát khỏi sanh tử luân
hồi, chứ Ngài đâu có muốn chúng ta thành Tổ!
Thiền Tông đã đặt nặng và đề
cao sự đốn ngộ quá, để rồi những người theo Thiền sau này quên đi con đường dẫn
đến giác ngộ, nó chỉ là một trợ duyên cuối cùng giúp cho hành giả ngộ đạo mà
thôi.
Cũng cần nhắc lại là ngộ đạo
chưa phải hoàn toàn giải thoát (sanh tử). Ngộ đạo chỉ là bước đầu, đồng nghĩa
với kiến tánh, hay giải ngộ. Trong Kinh Pháp Hoa có nói Khai Thị Ngộ Nhập Tri
Kiến Phật. Ngộ rồi phải tu tiếp đến khi nhập mới thôi, lúc đó gọi là chứng ngộ,
hay hoàn toàn giải thoát. Từ lúc ngộ đạo cho đến lúc hoàn toàn giải thoát, con
đường còn lại vẫn còn cam go và khó khăn, hành giả phải khéo léo, kiên nhẫn đối
phó với mọi sự cám dỗ, thu hút của sắc trần bên ngoài, và sự lừa bịp, lôi kéo
của vọng tưởng bên trong. Không phải một sớm, một chiều mới cất bước lên đường
mà đã tới đích rồi đâu.
Theo tôi nghĩ, chúng ta không
nên dùng chữ Thiền Ðốn Ngộ mà đúng hơn nên dùng chữ Tổ Sư Thiền. Vì chữ Thiền
Ðốn Ngộ hay làm cho người ta hiểu lầm là nếu tu theo Thiền này sẽ mau giác ngộ.
Nhưng "tu nhất kiếp, ngộ nhất thời ", hay "tu vạn kiếp ngộ nhất
thời" cũng có. Ðạo Phật dạy về nhân quả, có gieo nhân giác ngộ mới mong
gặt được quả giác ngộ. Khi có đầy đủ "nhân và duyên" thì quả giác ngộ
tự thành. Nếu có người nào bảo rằng không học mà biết, không tu mà thành thì
người đó không nói đạo Phật. Thí dụ trường hợp của Ngài Huyền Giác (tác giả Chứng
đạo Ca) đương thời gọi Ngài là "Nhứt túc giác" (một đêm giác ngộ).
Trước khi đến tham vấn Lục Tổ, Ngài đã tu hành giới hạnh trang nghiêm, chuyên
tu Chỉ-Quán (Samatha-Vipassanà). Nhân duyên đã đầy đủ, đến khi gặp Lục Tổ liền
được ấn chứng.
B. So sánh Tứ Niệm Xứ và
Thiền Tông
Thiền Tông được truyền xuống
từ Chư Tổ nên gọi là Tổ Sư Thiền. Còn Tứ Niệm Xứ được gọi là Thiền gì? Tứ Niệm
Xứ là phương pháp hành thiền mà chính đức Phật đã áp dụng cách đây trên 2531
năm và đã dạy lại cho các đệ tử, nên được gọi là Như Lai Thiền. Một Thiền của
Tổ Sư, một Thiền của Như Lai, vậy Thiền nào đúng, Thiền nào sai, Thiền nào cao
hơn Thiền nào?
Cả hai đều nhằm mục đích đưa
hành giả đến chỗ giác ngộ giải thoát, nên đều được coi là chánh pháp cả. Còn
Thiền nào cao hơn Thiền nào? Ai mà đặt ra câu hỏi này thì thiệt là... không
biết nói sao! Vì vấn đề không ở cao hay thấp mà ở chỗ người bệnh nào thì cho
thuốc đó mà thôi. Vậy cao hay thấp thì không, nhưng khác nhau thì có. Tuy thấy
khác nhưng thật ra cũng không thể gọi là khác được. Vì một bên đặt nặng về lý,
còn một bên chỉ dạy về sự. Về lý thì Thiền Tông quả là độc nhất vô nhị, với sự
đánh đập, la hét khiến người cầu đạo ngỡ ngàng, cố gắng tìm nhưng lý thuyết sâu
xa ở đó. Nhưng về sự, tức phần thực hành tu tập thì Thiền Tông vẫn nằm gọn trong
Tứ Niệm Xứ. Cổ Ðức xưa có câu:
Ðốn ngộ tuy đồng Phật
Ða sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Ða sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Dịch nghĩa là:
Ðốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió ngừng sóng vẫn đập
Lý hiện niệm còn xâm.
Nhiều đời tập khí sâu
Gió ngừng sóng vẫn đập
Lý hiện niệm còn xâm.
Khi đốn ngộ thì chỗ thấy không
khác chư Phật, song tập khí chất chứa từ nhiều đời, nhiều kiếp không thể một
lúc mà sạch hết. Cần phải nổ lực buông xả vọng tưởng, lâu ngày mới hết, như gió
đã dừng mà sóng chưa lặng, phải đợi thời gian từ từ nó mới yên. Chân lý đã thấy
rõ rồi mà vọng niệm vẫn còn xâm lấn mãi. Vì thế sau khi giải ngộ cần phải cố
gắng tu hành mới được chứng ngộ.
Về lý thì Thiền nói trăng,
nói cuội, chỉ đây nói đó, nhưng về sự thì không ngoài việc "diệt trừ vọng
tưởng". Muốn diệt trừ vọng tưởng không có pháp nào khác hơn ngoài Chánh
niệm (Samma-Sati) là chi thứ 7 trong Bát Chánh đạo (Ariya-Magga).
Chánh niệm là gì? Có phải là
ghi nhớ một cách chân chánh không? Niệm luôn miệng " Nam mô A Di Ðà Phật
" có phải là chánh niệm không. Ðầu óc luôn luôn nghĩ đến giáo lý Phật pháp
có phải là chánh niệm không?
Trên phương diện hành Thiền,
Chánh niệm cần được hiểu là quán niệm một cách chân chánh, chân chánh ở đây còn
có nghĩa là khách quan. Vậy chánh niệm là quán niệm, hay rõ hơn là quán sát và
ghi nhận một cách khách quan. Phải quán niệm khi nào, lúc nào? Việc thực hành
quán niệm không thể nằm ngoài bốn lãnh vực (bốn niệm xứ), đó là niệm thân, niệm
thọ, niệm tâm, niệm pháp.
Trở về Thiền Tông, ta thường
nghe nói: gánh nước, bửa củi là Thiền, lặt rau, hái cỏ cũng là Thiền. Có người
hỏi Thiền Sư Hụê Hải: "Tu Thiền dụng công thế nào?". Thiền Sư trả
lời: "Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ!". Người kia lại hỏi: "Ai
mà chả đói thì ăn, mệt thì ngủ. Tất cả mọi người đều như vậy, có gì là
khác?". Thiền Sư bảo: "Khi ăn ta biết đang ăn, khi ngủ ta biết đang
ngủ. Còn người đời thì khi ăn chẳng chịu ăn, đòi trăm thứ cần dùng; khi ngủ
chẳng chịu ngủ, tính toán ngàn chuyện!". Xem ra ở đây có khác gì Niệm thân
(Kàyanupassanà) của Tứ Niệm Xứ: "Khi thở vào một hơi dài, hành giả biết
mình đang thở vào một hơi dài...". Trong mỗi cử động của thân thể: đi,
đứng, nằm, ngồi Thiền Sư đều giữ chánh niệm, không cho tâm phóng đi một cách
bừa bãi theo vọng tưởng, đó chính là niệm thân vậy.
Các Thiền Sư có lúc đánh đau
điếng hoặc xô đệ tử què chân, đó không phải đánh thức người đệ tử trở về niệm
thọ (Vedanànupassanà) là gì?
Nhà Thiền có câu: "Không
sợ niệm khởi mà chỉ sợ giác chậm" có nghĩa là không sợ vọng niệm khởi lên,
mà chỉ sợ không tỉnh thức nhận liền ra nó. Ðó có khác gì niệm Tâm
(Cittànupassanà) của Tứ Niệm Xứ? Xưa kia Tổ Huệ Khả không chịu niệm Tâm, phải
chờ đến lúc gặp Tổ Ðạt Ma bảo: "đem tâm ra ta an cho", mới chịu trở
về tìm tâm.
Nhân nghe tiếng mưa rơi, nhìn
thấy hoa nở.v.v... mà nhận ra bổn tánh, đó phải chăng thuộc về niệm pháp
(Dhammànupassanà)?
Tu Thiền cần phải diệt vọng
tưởng. Muốn diệt vọng tưởng phải có chánh niệm, mà chánh niệm không ngoài Tứ
Niệm Xứ. Vậy Tứ Niệm Xứ là phép thực hành căn bản của Thiền.
Thế còn đặc tánh Giác ngộ của
Thiền Tông thì sao? Ðặc tánh giác ngộ của Thiền không phải vô duyên cớ. Vào
khoảng thế kỷ thứ 5, sau khi Kinh điển vừa được đem từ Ấn độ sang Trung Hoa,
các học giả Phật dồn hết tâm lực vào công cuộc phiên dịch Kinh từ Phạn ra Hán
văn. Sau đó mọi người đều hăng say đi tìm chân lý nơi văn tự của Kinh điển. Dần
dần họ bị như thu hút vào mê hồn trận của giáo lý cao siêu Ðại Thừa, để rồi
quên đi những Kinh điển căn bản nhưng giản dị và thiết thực của Tiểu Thừa. Càng
đi sâu vào triết lý văn tự của Kinh điển, họ càng hoang mang không biết đâu là
đạo, đâu là chân lý. Ðến lúc cùng đường, bí lối thì may thay, Bồ đề Ðạt Ma đã
xuất hiện như một vị cứu tinh với câu: "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập
văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật". Và từ đó Thiền Tông nổi
tiếng là một pháp môn đốn ngộ. Ai nấy đều đi tìm Thiền Sư chỉ cho giác ngộ.
Giác ngộ chỉ được thực hiện chứ không phải để được mong cầu. Chỉ có những người
quên và không biết sống với thực tại, lo đi tìm chân lý ở những gì cao xa mới
đi tìm giác ngộ.
Xưa kia Tổ Ðức Sơn đi đâu
cũng giảng Kim Cang, Pháp Ðạt tụng làu ba ngàn bộ Pháp Hoa, mà vẫn không ngộ
đạo, phải chờ đến khi có người chỉ cho chỗ tầm thường nhất mới chịu nhận ra.
Người tu theo Ðại thừa cũng
vậy, chỉ lo tụng Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, v.v.... mà
không chịu đọc Kinh Pháp cú, Chuyển pháp luân, Tứ thập nhị chương, Tứ Niệm
Xứ,v.v... Thiền Tông đã khéo tô điểm "giác ngộ", để người ta tưởng
rằng nó chỉ nằm trong tay của các Thiền Sư, rồi đua nhau đi tìm Thiền Sư chỉ
cho giác ngộ, làm như giác ngộ là một cái gì bên ngoài.
Hỡi những người đang đi tìm
giác ngộ chân chánh, hãy dừng chân lại! Tại sao phải đi tìm giác ngộ? Tại vì
bất giác. Bất giác chánh niệm, hay là thất niệm: ăn không biết mình đang ăn,
mặc không biết mình đang mặc, thở không biết mình đang thở... Giác ngộ phải
được thực hiện trong mọi giờ phút! Thiền Tông thường nói giác ngộ là nhận ra
ông chủ, hay bản lai diện mục. Nhưng theo tinh thần Tứ Niệm Xứ thì giác ngộ là
nhận biết thực tại, giác ngộ tương đương với chánh niệm, vì giác ngộ không thể
có ngoài chánh niệm. Người đời thường ưa chữ giác ngộ hơn chánh niệm, vì họ cho
rằng giác ngộ là một điều rất khó, còn chánh niệm thì quá dễ. "Ăn mà biết
mình đang ăn" thì ai chả biết? Ðó là chánh niệm đã bị tầm thường hóa rồi.
Chỉ có những người không biết hoặc chưa thực hành đúng đắn mới coi thường chánh
niệm mà thôi. Chánh niệm không phải là ý thức suông việc đang ăn của mình đâu,
mà phải thấy rõ, trực nghiệm tất cả tiến trình của sự ăn, tức là từ lúc bắt đầu
ăn, đang ăn, cho đến hết ăn, và tất cả những gì xẩy ra trong lúc ăn, và còn
nữa, còn nữa... Vì vậy chánh niệm phải được thực hiện trong từng giây phút,
từng sát na, và việc đó không phải dễ đâu, mà là một việc vô cùng khó khăn, đòi
hỏi nhiều thời giờ và kiên nhẫn, nếu không thì quý vị đã thành A La Hán hết
rồi!
Tóm lại Thiền Tông và Tứ Niệm
Xứ không xung khắc nhau mà ngược lại còn bổ khuyết cho nhau. Thiền Tông chuyên
về lý (mặc dù nói "bất lập văn tự"). Người tu Thiền tìm phương pháp
chắc chắn phải đi qua con đường Tứ Niệm Xứ. Trong Kinh Tứ Niệm Xứ không nói lý
cao siêu, nhưng xin người tu Thiền đừng xem thường nó, vì không phải ai cũng có
thể tu theo Tứ Niệm Xứ đâu, chỉ có nhưng người hiểu được "Bình thường tâm
thị đạo" mới chịu khó kiên nhẫn hành theo mà thôi.
Nguồn: Thiền Tứ Niệm Xứ, Thích Trí Siêu
Thầy Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sàigòn. Năm 1985
nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987
thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi.
Tuy xuất thân từ Ðại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
Tuy xuất thân từ Ðại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
No comments:
Post a Comment