HT. Thích Thanh Từ
Nói đến Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ
20 là nói đường hướng tu thiền của Tu viện Chân Không (1970-1986) ngày trước,
hay của Thiền viện Thường Chiếu… hiện nay (1974-1991…) do chúng tôi (Thích
Thanh Từ) chủ trương hướng dẫn.
TỔ HUỆ KHẢ (494 - 601)
Sau khi ngài Huệ Khả được Tổ
Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) nhận làm đệ tử mà lòng vẫn còn thao thức, tại sao
tâm mãi lăng xăng trong lúc ngồi thiền. Một hôm đến trước Tổ, Ngài bạch:
"Bạch Hoà thượng tâm con chẳng an, xin Hòa thượng dạy con pháp an
tâm". Tổ Đạt-ma nhìn thẳng bảo: "Đem tâm ra ta an cho." Ngài
sửng sốt quay lại tìm tâm, không thấy bóng dáng, bạch Tổ: "Con tìm tâm
không được." Tổ bảo: "Ta an tâm cho ngươi rồi." Ngay đây ngài
Huệ Khả biết được đường vào.
Chỗ biết được đường vào của
ngài Huệ Khả là một pháp tu mà không có pháp. Bởi vì từ xưa đến nay, tất cả
chúng ta đều nhận cái suy nghĩ phân biệt lăng xăng là tâm của mình, ngài Huệ
Khả cũng chung một thông lệ ấy. Cho nên ngồi lại tu, muốn cho tâm an mà nó
không chịu an, khiến chúng ta rất khổ sở về vấn đề này. Cầu pháp an tâm là điều
cấp thiết của người quyết chí tu hành. Ở đây Tổ Đạt-ma không dạy phương pháp
gì, Ngài chỉ bảo "Đem tâm ra ta an cho". Câu này là một tiếng sấm dẹp
tan mê lầm muôn thuở của ngài Huệ Khả.
Bình thường chúng ta nhận cái
hay suy nghĩ là tâm của mình, chịu sự sai sử lôi kéo của nó. Bất thần chúng ta
tìm lại nó thì nó mất tăm mất dạng. Khi nó không còn tăm dạng thì không an là
gì? Cho nên Tổ nói "Ta an tâm cho ngươi rồi". Ngài Huệ Khả sáng ý
nhận ra được lẽ này nên biết đường vào. Như vậy, Tổ Đạt-ma có dạy phương pháp
gì an tâm không? Nếu không, tại sao ngài Huệ Khả biết đường vào? Rõ ràng pháp
an tâm mà không có pháp, chỉ xoay ánh sáng trí tuệ soi rọi xem cái tâm bất an
ấy thế nào thì nó biến mất. Thuật ngữ nhà Thiền gọi là "Hồi quang phản
chiếu". Chúng tôi gọi "Biết vọng không theo". Chính đây là
"Biết được đường vào" của ngài Huệ Khả.
Tại sao nhà Thiền không chấp
nhận cái tâm suy nghĩ so tính ấy? Bởi vì, nếu chấp nhận nó làm tâm mình sẽ mắc
phải những lầm lỗi như sau:
Cái tâm suy nghĩ ấy khi có
khi không, còn chúng ta thì lúc nào cũng hằng hữu. Nếu chấp nhận nó là mình thì
khi không suy nghĩ là không có mình sao?
Bình thường nó suy nghĩ lăng
xăng, khi nhìn lại tìm kiếm nó thì mất tăm mất dạng. Nếu nó là thật mình thì
lúc nào cũng phải có. Trái lại khi tìm thì mất, chẳng qua nó chỉ là bóng dáng
mà thôi. Chấp nhận cái bóng làm mình thì thật là đau khổ cho con người.
Chúng ta ai cũng thừa nhận
mình trước sau vẫn là mình, mình là một từ bé đến già. Thế mà, tâm suy nghĩ ấy
lại trăm ngàn thứ, có khi nghĩ lành như hiền thánh, có khi nghĩ dữ như cọp
sói…, thì cái nào là mình?
Lúc đang suy nghĩ, chúng ta
biết mình đang suy nghĩ, lúc không suy nghĩ biết không suy nghĩ. Cái suy nghĩ
ấy là đối tượng bị biết của chúng ta. Đã là đối tượng tức là khách, là cái bên
ngoài không phải mình. Nếu cái suy nghĩ là thật mình, lúc không suy nghĩ, ai
biết không suy nghĩ? Đã có cái biết lúc không suy nghĩ thì làm sao nhận cái suy
nghĩ làm mình được?
Cái không phải mình mà lầm
nhận là mình, trong kinh Phật gọi là "Nhận giặc làm con", tai họa không
thể lường được. Cho nên bao nhiêu kinh điển, bao nhiêu pháp tu, đức Phật đều
dạy xoay quanh cái trục "Chận đứng tâm suy nghĩ lăng xăng này". Tụng
kinh phải nhiếp tâm, niệm Phật phải nhất tâm, tọa thiền phải định… Song đặc
biệt là Thiền tông, chư Tổ không dùng phương tiện để đè bẹp, để ngăn chặn nó,
mà dùng trí biết rõ bản chất không thật của nó thì nó hết tác quái. Chính câu
"Đem tâm ra ta an cho" của Tổ Đạt-ma đủ thể hiện ý nghĩa này.
"Biết đường vào"
chưa phải là kẻ đến nhà, phải trải thời gian lâu xa, ngài Huệ Khả mới bạch với
Tổ Đạt-ma: "Từ đây trở đi con dứt hết các duyên." Tổ Đạt-ma bảo:
"Chớ rơi vào đoạn diệt." Huệ Khả thưa: "Không rơi." Tổ
Đạt-ma hỏi: "Con làm thế nào?" Huệ Khả thưa: "Con thường biết rõ
ràng, nói không thể đến." Tổ Đạt-ma dạy: "Đây là chỗ truyền của chư
Phật, chớ nên hoài nghi." Đến đây mới thật là người về tới nhà, không còn
nghi ngờ gì nữa.
Khi Tổ Đạt-ma sắp tịch, hỏi
lại chỗ sở ngộ của các đồ đệ, đến lượt Huệ Khả, Ngài chỉ bước ra đảnh lễ ba lạy
rồi lui. Tổ Đạt-ma nói: "Ông được phần tủy của ta." Đến chỗ cứu kính
không còn ngôn ngữ để trình bày, vì ngôn ngữ là phương tiện tương đối, không
thể diễn tả được cái chân thật tuyệt đối. Từ đó ngài Huệ Khả được truyền y bát
làm Tổ thứ hai ở Trung Hoa.
TỔ HUỆ NĂNG (638-713)
Chỗ sở ngộ của Tổ Huệ Năng là
do nghe kinh Kim Cang Bát-nhã. Sau khi được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn cho vào thất và
nghe giảng kinh Kim Cang đến đoạn Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: "Khi phát tâm cầu
vô thượng chánh giác, làm sao an trụ tâm?" Phật đáp: "Chẳng nên trụ sắc,
chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm kia; nên không chỗ trụ mà
sanh tâm ấy." Ngài đại ngộ kêu lên: "Đâu ngờ tánh mình vốn tự thanh
tịnh! Đâu ngờ tánh mình vốn không sanh diệt! Đâu ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ!
Đâu ngờ tánh mình vốn không dao động! Đâu ngờ tánh mình hay sanh muôn
pháp!" Ngũ Tổ bảo: "Chẳng biết bản tâm học pháp vô ích, nếu nhận được
bản tâm mình, gọi là Trượng phu, Thiên nhân sư, Phật…" Thế là Ngài được
Ngũ Tổ truyền y bát làm Tổ thứ sáu.
Qua câu chuyện ngộ đạo của
Lục Tổ, chúng ta thấy từ lý Bát-nhã không cho sáu căn dính mắc (trụ) với sáu
trần là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lục Tổ không dừng ở chỗ không
dính mắc mà nhảy vọt vào thể tánh thanh tịnh, bất sanh bất diệt của chính mình.
Chính thể tánh này gọi là Pháp thân hay Bản Lai Diện Mục, đã có sẵn từ vô thủy
nơi tất cả chúng ta. Thấy tột chỗ này và sống được với nó là Đốn ngộ, là Kiến
tánh. Bản thân Lục Tổ được như vậy, song khi dạy người Ngài cũng có phương
tiện.
Lục Tổ vì phương tiện lập Tam
vô: Vô Niệm làm Tông, Vô Tướng làm Thể, Vô Trụ làm Bổn. Theo Lục Tổ giải: Đối
trên các pháp mỗi niệm không trụ, tức là không phược, đây là lấy Vô trụ làm
gốc. Ngoài lìa tất cả tướng gọi là Vô tướng, hay lìa tướng tức là pháp thể
thanh tịnh, đây là lấy Vô tướng làm thể. Đối trên các cảnh tâm không nhiễm, gọi
là Vô niệm (Kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Định Huệ). Không nhiễm các pháp, không kẹt
các tướng, không dính mắc các pháp, đây là chủ trương của Lục Tổ. Không nhiễm,
không kẹt, không dính, ngay khi tiếp xúc với sáu trần là thiền định. Không phải
chạy trốn cảnh trần, rồi sau tâm mới an định như các lối thiền định khác.
SƠ TỔ TRÚC LÂM (1258-1308)
Vua Trần Nhân Tông lúc còn
làm Thái tử đã thông suốt Thiền tông do sự giáo dục của Tuệ Trung Thượng sĩ.
Sau khi bỏ ngôi đi xuất gia, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Ngài hòa hội các
phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường đã truyền bá trên đất
nước Việt Nam, lập thành phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đây là phái thiền hoàn
toàn Việt Nam. Ở đây chúng tôi chỉ chắt lọc một vài nét nổi bật trong sự chỉ
dạy của Ngài để làm tiêu chuẩn, đó là bài kệ Hữu Cú Vô Cú:
Hữu cú vô cú
Đằng khô thọ đảo
Cơ cá nạp tăng
Chàng đầu khái não.
Đằng khô thọ đảo
Cơ cá nạp tăng
Chàng đầu khái não.
Hữu cú vô cú
Thể lộ kim phong
Hằng hà sa số
Phạm nhẫn thương phong.
Thể lộ kim phong
Hằng hà sa số
Phạm nhẫn thương phong.
Hữu cú vô cú
Lập tông lập chỉ
Đả ngỏa toản qui
Đăng sơn thiệp thủy.
Lập tông lập chỉ
Đả ngỏa toản qui
Đăng sơn thiệp thủy.
Hữu cú vô cú
Phi hữu phi vô
Khắc chu cầu kiếm
Sách ký án đồ.
Phi hữu phi vô
Khắc chu cầu kiếm
Sách ký án đồ.
Hữu cú vô cú
Hỗ bất hồi hỗ
Lạp tuyết hài hoa
Thủ chu đãi thố.
Hỗ bất hồi hỗ
Lạp tuyết hài hoa
Thủ chu đãi thố.
Hữu cú vô cú
Tự cổ tự kim
Chấp chỉ vong nguyệt
Bình địa lục trầm.
Tự cổ tự kim
Chấp chỉ vong nguyệt
Bình địa lục trầm.
Hữu cú vô cú
Như thị như thị
Bát tự đả khai
Toàn vô bả tỹ.
Như thị như thị
Bát tự đả khai
Toàn vô bả tỹ.
Hữu cú vô cu
Cố tả cố hữu
A thích thích địa
Náo quát quát địa.
Cố tả cố hữu
A thích thích địa
Náo quát quát địa.
Hữu cú vô cú
Đao đao phạ phạ
Tiệt đoạn cát đằng
Bỉ thử khoái hoạt.
Đao đao phạ phạ
Tiệt đoạn cát đằng
Bỉ thử khoái hoạt.
Câu có câu không
Bìm khô cây ngã
Mấy kẻ nạp tăng
U đầu sứt trán
Bìm khô cây ngã
Mấy kẻ nạp tăng
U đầu sứt trán
Câu có câu không
Thể bày gió thu
Hằng hà sa số
Va đao chạm bén.
Thể bày gió thu
Hằng hà sa số
Va đao chạm bén.
Câu có câu không
Lập tông lập chỉ
Đập ngói dùi rùa
Trèo non lội nước.
Lập tông lập chỉ
Đập ngói dùi rùa
Trèo non lội nước.
Câu có câu không
Chẳng có chẳng không
Khắc thuyền mò kiếm
Tìm ngựa bản đồ.
Chẳng có chẳng không
Khắc thuyền mò kiếm
Tìm ngựa bản đồ.
Câu có câu không
Hồi hỗ hay không
Nón tuyết giày hoa
Ôm cây đợi thỏ.
Hồi hỗ hay không
Nón tuyết giày hoa
Ôm cây đợi thỏ.
Câu có câu không
Tự xưa tự nay
Nhìn tay quên trăng
Đất bằng chết chìm.
Tự xưa tự nay
Nhìn tay quên trăng
Đất bằng chết chìm.
Câu có câu không
Như thế như thế
Chữ bát mở ra
Sao không nắm mũi.
Như thế như thế
Chữ bát mở ra
Sao không nắm mũi.
Câu có câu không
Ngó tả ngó hữu
Lau chau mồm mép
Ồn ào náo động.
Ngó tả ngó hữu
Lau chau mồm mép
Ồn ào náo động.
Câu có câu không
Đau đáu lo sợ
Cắt đứt sắn bìm
Đó đây vui thích.
Đau đáu lo sợ
Cắt đứt sắn bìm
Đó đây vui thích.
Qua bài kệ này chúng ta thấy
Ngài phản đối cái chấp hai bên biểu trưng bằng Có và Không. Song cái chấp hai
bên có vô số loại: có không, phải quấy, hơn thua, tốt xấu, thắng bại, hay dở,
lành dữ v.v… và v.v… Chính cái chấp hai bên là mầm tranh đấu, là nhân phiền
não, kết quả khổ đau không thấy chân lý.
Cho nên chín đoạn trong bài
kệ này, Ngài vừa quở trách, vừa chỉ dạy rất đầy đủ. Như đoạn một: "Mấy kẻ
nạp tăng, u đầu sứt trán", đoạn hai: "Hằng hà sa số, va đao chạm bén",
đoạn ba: "Đập ngói vùi rùa, trèo non lội nước", đoạn bốn: "Khắc
thuyền mò kiếm, tìm ngựa bản đồ", đoạn năm: "Nón tuyết giày hoa, ôm
cây đợi thỏ", đoạn sáu: "Nhìn tay quên trăng, đất bằng chết
chìm", đoạn bảy: "Chữ bát mở ra, sao không nắm mũi", đoạn tám:
"Lau chau mồm mép, ồn ào náo động", đoạn chín: "Cắt đứt sắn bìm,
đó đây vui thích".
Đoạn một và hai, Ngài quở
người chấp hai bên là tự chuốc khổ vào mình. Đoạn ba và bốn, Ngài chê kẻ chấp
hai bên là dại khờ, chỉ nhọc nhằn luống công. Đoạn năm và sáu, Ngài trách những
phương tiện tạm bợ mà người vì cố chấp hai bên nên không thấy chân lý. Đoạn bảy
và tám, Ngài chỉ thẳng chân lý ngay trước mắt như lỗ mũi nằm sẵn dưới chân mày
mà người ta không nhận, cứ lý luận ồn ào vô ích. Đoạn chín, Ngài nói ai dứt
chấp hai bên mới thật vui thích. Ngay đoạn chín này, hẳn là chỗ Nhị Tổ trình
kiến giải bằng ba lễ mà không có một lời. Không kẹt hai bên là căn bản của
Thiền tông, cũng chính là cốt tủy của Phật giáo.
Lại một bài kệ kết thúc bài
phú "Cư Trần Lạc Đạo" của Sơ Tổ Trúc Lâm là cô đọng những gì Lục Tổ
đã thấy và ứng dụng:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Chỉ hai câu chót trong bài kệ
cũng đủ kết thúc chỗ sở ngộ và mục tiêu dạy tu hành của Lục Tổ một cách kỳ
diệu. Thấy hòn ngọc sẵn có trong nhà, chính là chỗ Lục Tổ thốt lên "Đâu
ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh!…" Thiền là đối cảnh không tâm thì làm gì
có niệm nhiễm, là vô niệm; không tâm thì đâu kẹt cảnh bên ngoài, là lìa tướng
tức vô tướng, không tâm thì lấy gì để dính mắc, là vô trụ. Một câu kết này đã
bao gồm cả Vô Niệm, Vô Tướng, Vô Trụ hay Tông, Thể, Bổn của Lục Tổ dạy. Thiền
là đối cảnh không nhiễm, không kẹt, không mắc, chính đây là chủ trương của Lục
Tổ. Ngài Trúc Lâm Đầu Đà đã ứng dụng tuyệt vời chỗ thấy của Nhị Tổ, chỗ ngộ và
chỗ hành của Lục Tổ. Chúng ta là kẻ hậu học, tự hãnh diện ở Việt Nam xuất phát
một phái thiền trọn vẹn mang dấu ấn của chư Tổ tiền bối và dung hội tài tình
đường lối tu hành của người xưa làm kim chỉ nam cho hành giả Việt Nam chúng ta.
DUNG HỢP
Chúng tôi dung hợp pháp tu
của ba vị Tổ trên thành một lối tu cụ thể như sau:
- Nơi Nhị Tổ chúng tôi ứng
dụng pháp an tâm. Nghĩa là biết rõ tâm suy tưởng lâu nay là hư ảo, không để nó
đánh lừa, lôi dẫn chúng ta chạy theo trần cảnh, nên nói "Vọng tưởng không
theo". Mỗi khi nó dấy lên đều biết rõ như vậy. Một khi hành giả nhận diện bản
chất hư ảo của chúng thì chúng tự biến mất. Khi tọa thiền cũng như lúc tiếp
duyên xúc cảnh đều thấy rõ, không lầm chúng. Đến bao giờ được như Nhị Tổ nói
"Đoạn hết các duyên mà rõ ràng thường biết, nói không thể đến" là đạt
kết quả.
Tuy nhiên vọng tưởng này
không phải dễ lắng, dứt cái này khởi cái khác liên miên không dừng. Hành giả
phải bền chí theo dõi, soi sáng mãi chúng mới từ từ thưa dần. Nhận vọng tưởng
hư ảo làm tâm mình là mê lầm, biết vọng tưởng hư dối không thật là tỉnh giác.
Lối tu này là dùng "cái dụng của trí để phá si mê", chớ không có pháp
gì dùng để đè bẹp, nên nói "pháp an tâm mà không có pháp". Khi hết si
mê vọng tưởng lặng thì trí dụng cũng dừng, như trong muời mục chăn trâu, khi
trâu mất thì người chăn cũng không còn. Trí dụng hết đối trị, liền hội nhập trí
thể.
- Với Lục Tổ, chúng tôi ứng
dụng sáu căn không dính mắc sáu trần làm hướng tiến tu. Đó là câu "Bất ưng
trụ sắc sanh tâm…" trong kinh Kim Cang được Ngũ Tổ giảng cho Lục Tổ. Nhưng
làm sao căn không dính trần? Đương nhiên phải dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu,
thấy các pháp duyên hợp hư dối như huyễn như hóa. Vì thế trong kinh Pháp Bảo
Đàn, sau phẩm Hành Do là đến phẩm Bát-nhã. Nhờ trí tuệ Bát-nhã soi rọi thấy rõ
các pháp duyên sanh, không có chủ thể (vô ngã), không cố định (vô thường) nên
tâm không nhiễm trước sắc… do đó căn, cảnh không dính mắc nhau. Căn, cảnh không
dính mắc nhau là Vô Niệm, Vô Tướng, Vô Trụ, đó là chủ trương của Lục Tổ.
Lại có một cách khác, nếu
hành giả kiến tánh như Lục Tổ, hằng sống với thể tánh bất sanh bất diệt của
mình thì còn gì bận bịu với vọng tưởng hư dối, với sáu trần giả hợp. Đi đứng
nằm ngồi không lúc nào rời tự tánh chính mình. Được thế thì ung dung tự tại,
nên nói "đói ăn khát uống".
- Đến Sơ Tổ Trúc Lâm, trong
bài kệ "Câu Có Câu Không", đoạn thứ tư nói "Nón tuyết giày hoa,
ôm cây đợi thỏ" là tinh thần Bát-nhã của Lục Tổ. Các pháp hư giả như nón
tuyết, như đôi giày bằng hoa, tạm có rồi tan mất, mới thấy đẹp rồi héo xàu, có
gì lâu bền. Nếu chấp giữ nó là người ngu, như kẻ "ôm cây đợi thỏ".
Toàn thể pháp đối đãi đều không thật, do phương tiện bày lập, giống như dây sắn
dây bìm, một phen cắt đứt chúng mới là an vui tự tại. Đấy là tinh thần hai câu
kết của bài kệ "Cắt đứt sắn bìm, đó đây vui thích". Vừa dấy niệm là
đối đãi, vừa thốt lời là đối đãi, nếu dứt hết đối đãi thì còn niệm nào để khởi,
còn lời gì để nói. Đây là hằng sống thật với thiền.
Phần sau ở hai câu kệ
"Trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền",
là hình ảnh Lục Tổ thốt lên "Đâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh!…"
Thấu triệt tánh mình như thấy hòn ngọc quý vô giá có sẵn trong nhà, còn gì phải
tìm kiếm đâu xa. Thấy tánh mình thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, so với thân
vô thường tạm bợ và tâm vọng tưởng hư ảo thì thân tâm này còn có giá trị gì.
Trong không chấp thân, không chấp vọng tưởng làm mình, ngoài đối cảnh không còn
dính mắc, chính đây là chủ yếu của Thiền tông, cũng là cội nguồn của Phật pháp.
Ở đây chúng tôi lấy "Đối cảnh không tâm" làm tiêu chuẩn tu hành.
Không tâm là không tâm vọng tưởng chạy đuổi theo ngoại trần, chớ chẳng phải
không tâm là vô tri vô giác như cây gỗ. Không tâm hư ảo sanh diệt mà vẫn có tâm
hằng giác hằng tri, bất sanh bất diệt. Đây là chỗ giải thoát sanh tử của người
tu Phật.
Nhị Tổ Huệ Khả sau khi ngộ
đạo vẫn được Tổ Đạt-ma giới thiệu bốn quyển kinh Lăng-già để ấn tâm. Lục Tổ Huệ
Năng nghe giảng kinh Kim Cang ngộ đạo. Thế là đủ minh chứng Thiền tông không
rời Kinh, vì Thiền là tâm của Phật, Kinh là miệng của Phật. Đức Phật tâm miệng
không khác thì Thiền và Giáo làm sao tách rời được. Cho nên chúng tôi chủ trương
"Thiền, Giáo đồng hành".
Để thấy rõ nét lối dung hợp
pháp tu qua ba vị Tổ trên, chúng tôi cô đọng lại bằng những lối tu:
Biết vọng không theo, vì vọng
tưởng là những tâm niệm hư ảo.
Đối cảnh không tâm, vì nó là
tướng duyên hợp giả dối tạm bợ.
Không kẹt hai bên, vì đối đãi
là không thật.
Hằng sống với cái thật, không
theo cái giả, vì giả là luân hồi, thật là giải thoát.
Đây là bốn phương tiện chúng
tôi tạm lập để hướng dẫn người tu. Tùy theo căn cơ trình độ nhanh chậm, cao
thấp của hành giả mà lối ứng dụng có khác. Cũng có thể bốn lối tu này, hành giả
linh động ứng dụng theo thứ tự từ pháp thứ nhất đến pháp thứ tư để tu hành cũng
tốt. Những nét cô đọng trên là kết thúc bài này của chúng tôi.
Trích yếu: Thiền
Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20
No comments:
Post a Comment