Matthieu Ricard
Nhiều người nói
thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều
này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học
gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh
hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và
ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa
học và Thiền quán.
Hai mươi năm trước
đây hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ của một người
trưởng thành không còn có thể thay đổi và không có tế bào não mới nào sinh sản
thêm khi não bộ đã trưởng thành. Có thể có những phương pháp tạm thời nhằm tăng
cường hay phát động những liên hoạt động liên hệ giữa các tế bào não, trong khi
số lượng tế bào não càng ngày càng suy thoái theo tuổi tác.
Những thay đổi não
bộ thường xảy ra khi người ta
còn ‘trẻ’. Hiện nay có nhiều ý kiến mới và các
nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ sinh trưởng uyển chuyển (Neuro-plasticity)
hơn là chúng ta nghĩ , nghĩa là não bộ tiếp tục biến đổi theo với kinh nghiệm
sống và các tế bào não tiếp tục được sinh sản và tăng cường những hoạt động
liên hệ giữa các tế bào não, tăng cường các hoạt động giữa các tế bào hiện có
và sinh sản các tế bào mới.
Trong một nghiên
cứu, Fred Gage và các đồng nghiệp tại Salt Institute ở bang California,
nghiên cứu phản ứng của chuột cho biết là não bộ của chuột sinh sản thêm
nhiều tế bào não khi được chuyển qua sống trong một môi trường mới, từ một cái
một cái lồng trơ trọi qua một nơi khác có gắn bánh xe cho chuột tập thể dục, có
những đường hầm để chuột thám hiểm và có nhiều bạn để chuột chơi đùa. Kết quả
thật bất ngờ: chỉ trong vòng 45 ngày, số lượng tế bào não tăng lên trong vùng
não thùy hippocampus, nơi lưu trữ các tế bào não được chế biến và xử lý
những kinh nghiệm kỳ thú- tăng thêm 15%, ngay cả trong não bộ của các con chuột
già!
Điều này có xảy ra
cho não bộ người như trong não bộ chuột không? Tại Thụy Điển Peter Ericksson
nghiên cứu việc hình thành các tế bào não mới trong các bệnh nhân bị ung thư.
Khi các bệnh nhân này qua đời não của họ được giải phẩu cho thấy cũng như trong
loại chuột, tế bào não mới đã được tạo ra và tàng trữ khu não Hippocampus.
Các nhà khoa học
thần kinh não bộ hiện nay nhận thấy là việc sinh sản các tế bào não suốt đời là
một chuyện có thể xảy ra, như Damien Coleman nhận xét trong tác
phẩm Destructive Emotions (Những tình cảm độc hại) :” (Khi chụp não)
của các nhạc sĩ chơi vĩ cầm thực tập đàn mỗi ngày trong nhiều năm, một mô thức
sinh sản tế bào não uyển chuyển xuất hiện (Neuroplasticity). Các máy chụp não
cộng hưởng từ trường MRI cho thấy là, vùng não điều khiển các ngón tay chơi đàn
tăng trưởng và các vùng não điều khiển các ngón tay của những người thực tập
đàn từ lúc nhỏ cũng thay đổi.
Cũng thế việc
nghiên cứu một số vùng não bộ của những người chơi cờ tây (Chess) và các lực sĩ
thế vận cũng cho thấy vùng não điều khiển các hoạt động liên hệ cũng thay đổi.
Và câu hỏi căn bản là nếu một người tình nguyện thực tập để làm giàu tâm
linh bằng thiền quán, các vùng não bộ liên hệ có tăng trưởng không?
Đó là chính mục
tiêu mà nhà khoa học thần kinh não bộ,Richie Davidson, và các đồng nghiệp của
ông đang nghiên cứu tại phòng thí nghiệm W.M. Keck về Chụp Hình Não Bộ và Hành
vi tại Đại Học Wisconsin- Madison (Hiện nay có tên mới là Phòng thí
nghiệm Waisman về Chụp Hình Não Bộ và Hành Vi).
Cuộc gặp gỡ kỳ thú
Các công trình
nghiên cứu này khởi đầu từ một nơi cách xa đây một nửa địa cầu, tại chân núi Hy
Mã Lạp Sơn ở Ấn Độ, trong một ngôi làng nhỏ nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt cơ sở
của chánh phủ Tây Tạng Lưu Vong, sau khi Trung Quốc xua quân vào xâm chiếm vào
năm 1959. Vào mùa thu năm 2000, một nhóm các Khoa Học gia hàng đầu về Thần Kinh
Não Bộ họp mặt trong 5 ngày và thảo luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma về ảnh hưởng
của Thiền trên Não Bộ. Đây là lần họp thứ 10 trong một chuổi các buổi họp đáng
ghi nhớ, giữa các khoa học thần kinh não bộ và Đức Đạt Lai Lạt Ma, đã được tổ
chức từ năm 1985, do viện Tâm và Đời Sống (Mind and Life) bảo trợ, do sáng kiến
của nhà khoa học Francisco Varela, một nhà nghiên cứu tiên phong trong khoa học
về tri thức.
Đề tài là Tình Cảm
Phá Hoại (Destructive Emotions) và tôi (Matthieu Ricard) được giao phó trách
nhiệm trình bày quan điểm của Phật Giáo dưới sự giám sát của Đức Đạt Lai Lạt Ma
và tôi có cảm tưởng như mình đang bị khảo hạch trong một kỳ thi tại trường. Sau
lần gặp gỡ ngoạn mục này, Daniel Coleman kể lại trong Destructive
Emotions, một vài chương trình khác được tung ra để về nghiên cứu về phát triển
của vùng não của những cá nhân đã thực hành thiền quán lâu hơn 20 năm.
Bốn năm sau đó,
vào tháng 11 năm 2004, các tạp chí khoa học có uy tín như Báo Cáo Nghiên Cứu
của Viện Khoa Học Quốc Gia (Mỹ) lần đầu công bố những công trình nghiên cứu về
tác động của Thiền Quán lên não bộ. Các trình trạng xảy ra trong các giai đoạn
thiền quán trước đây thường được diễn đạt qua các kinh nghiệm cá nhân, lúc đó
được trình bày bằng ngôn ngữ khoa học.
Hiện nay có 12
thiền sư có nhiều kinh nghiệm, gốc Á Châu và Âu Châu trong truyền thống
Tây Tạng (8 người gốc Á và 4 người gốc Âu, tăng sĩ lẫn cư sĩ) đã được Richard
Davidson và Antoine Lutz, học trò của nhà khoa học não bộ lừng danh Francisco
Varela, cộng tác nghiên cứu. Những thiền sư tham dự cuộc nghiên cứu này
ước tính là đã từng thực tập Thiền từ 10 ngàn đến 40 ngàn giờ, từ 15 năm đến 40
năm, được so sánh với như ‘nhóm kiểm soát’, gồm 12 thiền sinh tập sự thuộc các
nhóm tuổi khác nhau. Những người trong nhóm này chỉ được dạy và thực hành
Thiền trong vòng 1 tuần lễ.
Thiền sư trong phòng
thí nghiệm
Tôi (Matthieu
Ricard) là một người tình nguyện tham dự thí nghiệm đầu tiên (guinea
pig). Một thủ tục được chấp nhận, trong đó người thực hành thiền thay đổi qua
lại giữa trạng thái đang thiền định và trung lập. Trước tiên các trạng thái này
đã được thử nghiệm, và có 4 trạng thái được chọn lựa để nghiên cứu: Thiền từ
bi, Định (focused attention) chánh niệm (open presence) và quán tưởng hình
tượng.
Trong Phật giáo có
những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhắm khích động
lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, để tâm bị tràn ngập bởi lòng thương
lớn, không có giới hạn trên đối tượng đặc biệt nào. Trong khi đó Định đòi
hỏi sự chăm chú đến một đối tượng đặc biệt đã được chọn lựa nào đó và dùng như
một cái neo, và khi nào tâm đi lạc đường nhảy lung tung, thì dẫn tâm trở về cái
neo đó. Đối tượng của định phải rõ ràng (ví dụ tượng Phật), im lặng, và
vững vàng. Tránh những đối tượng dễ sinh ra cảm giác nhàm chán hay khiến ý
tưởng dễ bị lạc hướng vì bị kích thích.
Đối tượng chánh
niệm rộng rãi hơn, mở rộng, bao la và nếu tâm bị đi lạc thiền sư dùng ý thức để
trở về hơi thở. Thiền chánh niệm thực ra không trụ ở chỗ nào, không để Tâm đi
lạc, hoàn toàn an trú trong hiện tại. Khi có ý tưởng nào mới nổi dậy, người
thực hành Thiền không ngăn chận chúng, nhưng chỉ để chúng biến mất tự nhiên.
Quán tưởng hình
tượng là một tâm hành phức tạp. Hành giả hình dung hình tượng, vẻ mặt, quần áo,
dáng ngồi hay đứng…và quan sát kỹ càng từng chi tiết hình tượng. Người hành
Thiền hình dung toàn thể hình tượng và cố gắng quân bình hóa toàn thể hình
tượng này.
Những phương pháp
thiền quán khác nhau là những cách mà các Thiền sư luyện tập trong nhiều năm,
nên phương pháp này đối với họ trở nên ổn định và trong sáng.
Trong phòng thí
nghiệm. có 2 cách chính để nghiên cứu hành giả Thiền.
Phương pháp EEGs
ghi lại hoạt động của những dòng điện với thời gian chính xác, trong khi máy đo
cộng hưởng từ trường (fMRI), đo lượng máu chảy trong nhiều vùng khác nhau của
não bộ, cung cấp chính xác những khu nơi các tế bào não đang hoạt động.
Các Thiền sư trụ
trong trạng thái trung lập của não chừng 60 giây sau đó chuyển sang trạng thái
Thiền. Quá trình này được lập đi lập lại nhiều lần. Các dụng cụ đo đạc
gồm 256 censors ghi nhận cảm thọ của Thiền sư. Các dòng điện cho thấy sự khác
biệt giữa một người mới ngồi Thiền và những Thiền sư có kinh nghiệm. Trong lúc
thực hành Thiền từ bi, các Thiền sư có kinh nghiệm cho thấy các mức hoạt động
não tăng lên nhờ các tia sóng gamma. Hiện tượng này trước đây chưa bao giờ được
báo cáo trong khoa thần kinh não bộ”, Davidson cho biết.
Người ta cũng thấy
các chuyển động của các sóng qua não được phối hợp tốt hơn, nhịp nhàng hơn so
với nhóm kiểm soát, mức hoạt động của tia gamma tăng nhẹ khi họ ở trong
trạng thái Thiền. Điều này cho thấy là não có thể được huấn luyện được để thay
đổi về mặt vật lý mà trước giờ nhiều người khó có thể tưởng tượng ra được. Và
các Thiền sư có thể điều hành các hoạt động não một cách có chủ ý”.
Một trong những
khám phá thú vị nhất là những vị sư có kinh nghiệm từng thực tập Thiền lâu năm
có thể làm khởi động nhiều tia gamma nhất. Điều này khiến Davidson đưa đến kết
luận là ‘Thiền không những làm thay đổi hoạt động của não ngắn hạn mà có thể
tạo những thay đổi dài hạn”
“ Không loại bỏ
khả năng những hoạt động não của những người mới hành Thiền và các thiền
sư nhiều kinh nghiệmkhác nhau trước khi họ thực tập Thiền”. Tuy nhiên có
bằng chứng cho thấy có sự khác biệt giữa các thiền sư mới thực tập và các
thiền sư kinh nghiệm là do quá trình thực tập. Davidson nói rằng có bằng
chứng cho thấy là những nhà sư thực hành Thiền nhiều năm có những thay đổi hoạt
động não bộ nhiều nhất cho chúng ta thấy là thay đổi là do thực tập gây ra.
Bằng chứng cũng cho thấy là những người thực tập Thiền lâu năm có nhiều tia
gamma hơn những người trong nhóm kiểm soát, ngay trong khi não bộ của họ đang
trong trạng thái trung lập, trước khi bắt đầu đổi sang trạng thái Thiền. Một
tác giả chuyên viết về khoa học, Sharon Begley phê bình: “Điều này mở ra một
khả năng thú vị là não bộ, cũng giống như các phần khác của cơ thể, có thể thay
đổi một các tự ý. Cũng giống như tập thể dục dưới nước làm bắp thịt thay đổi,
luyện tập óc não có thể làm thay đổi chất xám trong những cách mà các nhà khoa
học có thể bắt đầu hiểu được.’
Phản xạ giật mình
Giật mình vì tiếng
động lớn là một phản ứng tự nhiên sơ khai của cơ thể. Bắp thịt co rút một
cách nhanh chóng khi thình lình nghe một tiếng động hay chứng kiến một cảnh
kinh hãi bất ngờ. Trong phản xạ giật mình, 5 bắp thịt ở mặt, phần lớn quanh
mắt, co lại tức khắc. Toàn bộ phản ứng kéo dài chừng một phần ba giây.
Cũng như các phản
xạ khác, đây là một phản ứng phát sinh từ tế bào não và thường không thể kiểm
soát hay ngăn chặn được. Và theo những gì khoa học biết đến nay, không có cơ
chế nào có thể kiểm soát được phản xạ này. Mức độ nghiêm trọng của những phản
ứng tự động đó phản ảnh cho những tình cảm tiêu cực như sợ hãi, giận dữ, buồn
bã và kinh tởm. Các tình cảm tiêu cực mạnh chừng đó, phản xạ giật mình càng
mạnh chừng đó.
Để thí nghiệm phản
xạ giật mình của người thực hành Thiền, Paul Ekman và Robert Levenson,
hai tâm lý gia tiên phong nghiên cứu về tình cảm, đã làm việc tại Phòng Thí
Nghiệm Tâm Sinh lý tại Đại Học Berkeley. Các phản ứng vật lý của cơ thể người
ngồi Thiền như nhịp tim, mức tóat mồ hôi, và nhiệt độ của da được đo đạc. Phản
ứng của mặt được quay phim để bắt kịp những phản ứng của tâm sinh lý trong phản
xạ giật mình. Tiếng nổ thình lình dựa trên mức độ mà con người có thể chịu đựng
được như một tiếng nổ lớn tương đương với một tiếng súng bắn bên tai.
Đối tượng thí
nghiệm được cho biết là trong vòng 5 phút sẽ có một tiếng nổ lớn. Người này
được yêu cầu làm mọi cách để vô hiệu hóa phản xạ giật mình thành một phản ứng
không đáng kể, nếu có thể được. Một số người phản ứng tốt hơn một số người
khác, nhưng không có người nào áp đảo được phản xạ một cách hoàn
toàn- dù là họ cố gắng hết sức. Trong số hàng trăm đối tượng nghiên
cứu của Ekman và Levenson thí nghiệm, kể cả cảnh sát chuyên bắn sẽ, không
có người nào áp đảo được phản xạ khi nghe tiếng nổ thình lình. Nhưng các
người thực hành thiền có thể áp đảo phản xạ này được.
Ekman giải thích:
“Khi các thiền sư cố gắng đàn áp phản xạ giật mình, phản xạ này hầu như biến
mất. Từ trước đến giờ chúng tôi chưa thấy người nào có thể làm được chuyện này.
Đây là một sự kiện hết sức ngoạn mục. Chúng tôi hoàn toàn không biết tại sao
các thiền sư có thể dằn được các phản xạ giật mình này!”
Trong lúc thử
nghiệm, các thiền sư thực hành hai loại thiền quán: Quán tưởng và chánh niệm.
Cả hai loại Thiền này đã được rMRI nghiên cứu trước đó tại Madison. Ảnh
hưởng tốt nhất là Thiền chánh niệm: “Trong trạng thái chánh niệm, họ không
chủ động kiểm soát phản xạ giật mình, nhưng tiếng nổ hình như xảy ra ở một khoảng
rất xa nào đó. Do đó tiếng động trở yếu ớt hơn. Ekman mô tả tại sao về phương
diện vật lý: mặt của các thiền sư biến đổi, nhưng không có một bắp thịt nào ở
mặt cử động. Và đối tượng được thí nghiệm giải thích: “Trong lúc ý thức bị đi
lạc, tiếng nổ đem tôi về hiện tại và làm tôi ngạc nhiên. Nhưng không gian hiện
tại mở rộng, tôi an trú trong hiện tại và tiếng nổ lớn xảy ra chỉ gây một ít
khó chịu; Giống như con chim lướt qua bầu trời”.
Mặc dù bắp thịt
trên mặt của các thiền sư không co rút lại khi họ đang ở trong trong thái thiền
chánh niệm, nhưng những phản ứng vật lý khác như nhịp tim, đổ mồ hôi, áp huyết…
vẫn tăng lên như trong phản xạ giật mình. Điều này cho chúng ta biết là cơ thể
có phản ứng, ghi nhận ảnh hưởng của tiếng nổ, nhưng tiếng nổ đó không gây ra
phản ứng tình cảm nào trên Tâm. Phản ứng của các thiền sư cho thấy tình cảm của
họ trong tình trạng ‘xả’, một đặc tính trong tứ vô lượng tâmmà Phật
Giáo hay nhắc tới như thành quả của việc ngồi thiền.
Viễn tượng huấn
luyện tâm linh
Nhà nghiên cứu
Coleman viết:
‘Đi tìm một họa đồ
…trong đó não bộ có thể huấn luyện được những tình cảm tích cực: hài lòng thay
vì tham đắm, an lành thay vì bị khích động, từ bi thay vì sân hận. Dược
phẩm là phương tiện chính tại Tây phương để thay đổi tình cảm rối loạn, tuy là rất
hiệu nghiệm trong việc thay đổi thay đổi trạng thái tình cảm vui buồn cho hàng
vạn (triệu) bệnh nhân. Những thí nghiệm với các Thiền sư đặt ra câu hỏi là: một
người qua nổ lực của chính mình, có thể mang tới những thay đổi tích cực lâu
dài bằng cách thay đổi chức năng não bộ có thể có những kết quả tốt hơn dược
phẩm trong việc tác động trên tình cảm?’
Về khoa học trí
năng, thí nghiệm này không phải chỉ có mục đích chứng tỏ khả năng của một số
thiền sư, nhưng giúp cho chúng ta suy nghĩ lại những giả định về tác động của
việc huấn luyện tâm linh để tạo ra những tình cảm tích cực. Những gì
chúng ta khám phá trong việc huấn luyện tâm linh, hay óc não, về phương diện
vật lý, khác với những người chưa được huấn luyện. Đến một lúc chúng ta có thể
hiểu những sự quan trọng tiềm ẩn của việc huấn luyện tâm linh và khiến mọi
người suy nghĩ nghiêm túc hơn về Thiền quán như là một phương pháp huấn luyện ”
Davidson nói: “ Điều quan trọng là khám phá ra quá trình huấn luyện tâm linh
cho những ai có đủ quyết tâm thực hiện.
Chúng ta tự hỏi là
cần bao nhiêu thời gian thực hành thiền quán mới đủ để làm não bộ thay đổi,
nhất là trong phương pháp tế nhị như thực hành thiền. Cũng giống như đến mức
nào một nhạc sĩ vĩ cầm đã thực tập bao nhiêu giờ mới có đủ khả năng thi vào
Viện âm nhạc quốc gia? Phần lớn những thiền sư đang được Luts và Davidsob
nghiên cứu đã thực tập 10 ngàn giờ Thiền quán, phần lớn trong các khóa tu hay
trong sinh hoạt hàng ngày.
Mười ngàn giờ thực
tập Thiền quán đối với nhiều người là một thời gian quá dài, phần lớn chúng ta
không mấy ai đạt tới mức này. Tuy nhiên có nhiều tín hiệu đáng khích lệ từ
nghiên cứu khác do Jon Kabat Zin và Davidson, các đối tượng thí nghiệm chỉ cần
thực tập 3 tháng, não thùy phía trước bên trái của các nhân viên trong một công
ty kỹ thuật cao cấp ở Madison thay đổi và cho thấy là có dấu hiệu kích hoạt.
Những nghiên cứu của Davidson và các đồng nghiệp trong 20 năm qua cho thấy
nhiều người thực tập báo cáo về tình cảm tích cực như ‘hỷ’, ‘vị tha’, ‘nhiệt
tâm’, và họ cảm thấy có thêm nhiều sinh lực và cảm thấy sinh động vào cuối các
thời kỳ huấn luyện. Hệ thống miễn nhiễm của các người được huấn luyện thực tập
Thiền cũng tăng lên, các liều chủng ngừa trong mùa trong khóa huấn luyện có
hiệu quả hơn 20% so với các chủng ngừa trong các nhóm kiểm soát.
Nói tóm lại viễn
tượng dùng Thiền quán để huấn luyện tâm linh để làm cho các tình cảm phá hoại
biến mất. Những yếu tố thực dụng trong Thiền Quán có thể rất quý giá trong việc
phối hợp với giáo dục thiếu nhi để giúp các em khi trưởng thành sống được một cuộc
đời có chất lượng hơn. Những kỹ thuật Thiền Quán có giá trị giải quyết cơ chế
sâu xa nhất về Tâm của con người, giá trị như thế sẽ có tánh cách phổ quát,
không cần phải mang nhãn hiệu Thiền ‘Phật giáo’. Tóm lại sự hợp tác hiện nay
giữa khoa học và Thiền quán có thể giúp con người thấy được giá trị vô giá của
việc huấn luyện Tâm Linh. Nếu sự quân bình giữa hạnh phúc và tình cảm
được thực hiện bằng một khả năng có thể đào tạo, chúng ta không thể nào lượng
giá đúng mức quyền lực chuyển hóa của Tâm và phải xem đây những phương pháp sâu
xa giúp chúng ta trở thành con người tốt hơn.
Matthieu Ricard
(Chuyển Luân)
No comments:
Post a Comment